KỶ NIỆM NHỎ
…
Khoảng năm 1986, khi lãnh dạo vừa mới đưa ra “đổi mới” bãi bỏ bao cấp và “cấm chợ ngăn sông”, thực hiện
“kinh tế thị trường”, tôi còn ngây ngô, chưa biết thế là sao...
Rồi vài hôm sau, tôi
đang đạp xe trên phố Nguyễn Công Trứ, thì nhìn thấy ông bạn VŨ HOÀNG ĐỊCH (em ruột nhà thơ Vũ Hoàng Chương) lúc ấy là Viện trưởng Viện Triết học, cũng đang đạp xe nhưng ngược
chiều với tôi. Nhìn thấy tôi, anh vội đỗ lại, dắt xe vào hè :
- Này, mình cần nói ngay với cậu một câu. Ngồi xuống đây !
Anh ngồi vào chiếc ghé dài của hàng nước chè trên hè phố. Tôi ngồi xuống theo, ngạc nhiên, không biêt chuyện gì mà nét mặt anh có vẻ quan trọng thế.
- Này, mình cần nói ngay với cậu một câu. Ngồi xuống đây !
Anh ngồi vào chiếc ghé dài của hàng nước chè trên hè phố. Tôi ngồi xuống theo, ngạc nhiên, không biêt chuyện gì mà nét mặt anh có vẻ quan trọng thế.
Anh nói luôn :
- Mình phải giải thích kinh tế thị trường là gì để vợ chồng cậu biết và liệu đối phó. Kinh tế thị trường là chợ giời... - Thấy tôi ngơ ngác, chưa hiểu, anh nói tiếp : - Là sẽ có hàng thật có hàng giả, có ăn mày có kẻ cắp…Cậu nói với cô Thúy để cô ấy hiểu và liệu mà sống. Mà cảnh giác ! Cậu trả tiền nhé. Mình đang vội đi có việc…
Rồi anh đứng dạy lấy xe, vội vã đạp đi tiếp… Tôi trả tiền bà chủ hàng nước rồi cũng ra lấy xe.
- Mình phải giải thích kinh tế thị trường là gì để vợ chồng cậu biết và liệu đối phó. Kinh tế thị trường là chợ giời... - Thấy tôi ngơ ngác, chưa hiểu, anh nói tiếp : - Là sẽ có hàng thật có hàng giả, có ăn mày có kẻ cắp…Cậu nói với cô Thúy để cô ấy hiểu và liệu mà sống. Mà cảnh giác ! Cậu trả tiền nhé. Mình đang vội đi có việc…
Rồi anh đứng dạy lấy xe, vội vã đạp đi tiếp… Tôi trả tiền bà chủ hàng nước rồi cũng ra lấy xe.
*
Sau này, tìm hiểu tôi mới thấy
kinh tế thị trường đúng là cần thiết, nhưng cũng nảy sinh lắm “tiêu
cực”. Như thế thì thi hành nó làm gì ? Thấy cần hiểu rõ thêm, tôi bỏ bao công sức ra đọc
sách vờ tài liệu, cuối cùng mới vỡ lẽ.
Thì ra muốn thực hiện kinh tế thị
trường thì phải kèm theo luật pháp nghiêm minh, trong khi ờ ta làm gì
có luật pháp ?… Kinh tế thị trường như tay ga, còn luật pháp như cái
phanh. Xe chỉ có tay ga mà không có phanh thì đâm loạn xạ là lẽ tất
nhiên.
*
Ta cũng nói “pháp quyền” đấy, nhưng là nói cho vui thôi. Anh A, hoặc anh
B, anh C... bảo thằng ấy có tội thì nó là có tội, bảo nó không có
tội thì nó là không có tội. Đấy là “chuyên chính”, thứ không cần
đến luật pháp.
Ông tổ Lênin đã chẳng định nghĩa “chuyên chính vô sản”
là gì đấy thôi : “Về
mặt khoa học, khái niệm chuyên chính có nghĩa là một chính quyền dựa trực tiếp
vào vũ lực, không bị hạn chế bởi bất cứ luật lệ nào, không bị gò bó bởi bất cứ
nguyên tắc nào… »[i]
Người ta ban bố điều luật này điều luật nọ chỉ để cho vui, thế thôi. Như
thế, ở ta là thứ « kinh tế thị trường loạn xạ, không có luật
pháp kiềm chế… » và sẽ « có hàng thật có hàng giả, có ăn
mày có kẻ cắp… » như anh bạn tôi hôm ấy đã cảnh báo là tất
nhiên. Vì không có "tay phanh" nên hàng giả và kẻ cắp ngày càng xuất hiện nhiều... đến mức đa số là hàng giả và nửa chợ là kẻ cắp...
.
Về NGUYỄN HỮU ĐANG
Năm ấy, khoảng 1942-1943 thì phải, Đáp Cầu quê tôi lập Chi hội TRUYỀN
BÁ QUỐC NGỮ, hình như là Chi Hội đầu tiên, ngay sau khi Hội ra mắt tại Hà Nội. Bác tôi, NGÔ THẾ PHÚC (anh ruột mẹ tôi, sau là Đại biểu Quốc hội Khóa I, khóa đầu tiên) đứng ra thành lập. Cha tôi vốn là giáo viên, rất nhiệt tình, tích cực tham gia
dạy những lớp học cho người mù chữ, và tổ chức, vận động người khác cùng đi dạy, thường vào buổi tối. Hoạt động của Chi hội ở quê tôi hoạy động rất đa dạng, tổ chức nhiều sinh hoạt vui chơi hỗ trợ và quảng bá cho phong trào, thí dụ lập ra Ban Khánh Tiết, lâu lâu
lại tổ chức biểu diễn để gây thanh thế.
*
Tôi có giọng hát khỏe, vang nên thường được huy động
tham gia.
Tôi còn nhớ tiết mục hát đồng ca các bải ca yêu nước của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước lúc ấy rất được hâm mộ như « ẢI CHI
LĂNG », « BẠCH ĐẰNG GIANG »… , và nhiều
hành khúc viết cho thanh thiếu niên của nhạc sĩ Hoàng Quý… Tôi còn nhớ Ban Khánh tiết của Chi hội TBQN khéo léo điều đình ở làng nào
trong vùng (xưa vốn có tên là đất Kinh Bắc) mượn được con ngựa gỗ "thờ" rất to, sơn son thếp vàng, xưa nay vẫn được thờ giữa đình, chở
về, đem bầy giữa sân khấu làm khung cảnh cho những tiêt mục đồng ca...
Tôi có giọng vang và to nhất, được giao đảm nhiệm vai trò lĩnh xướng, mặc áo bào, đội khăn vàng, ngồi trên lưng con ngựa gỗ sơn son thếp vàng to tướng, tay giơ cao thanh kiếm tuốt trần, lấy hết sức gào : « Chi Lăng ! Chí Lắng ! Tiếng ai hò reo vang trời ! Chi Lăng ! Chí Lắng ! Bóng ai tranh hùng muôn đời… » Thế là cả đội đồng ca 12 đứa, mặc quần áo lính thời cổ, đội nón chóp có tua trên đỉnh, chân quấn xà-cạp, đứng cầm ngọn dáo nhọn hoắt, chia ra tua tủa hai bên, mỗi bên 6 tên…hát bắt theo : « Trời âm u, gió tung, rú lên, rít lên ào ào… Rừng thông rên xiết dưới làn bão… »
Tôi có giọng vang và to nhất, được giao đảm nhiệm vai trò lĩnh xướng, mặc áo bào, đội khăn vàng, ngồi trên lưng con ngựa gỗ sơn son thếp vàng to tướng, tay giơ cao thanh kiếm tuốt trần, lấy hết sức gào : « Chi Lăng ! Chí Lắng ! Tiếng ai hò reo vang trời ! Chi Lăng ! Chí Lắng ! Bóng ai tranh hùng muôn đời… » Thế là cả đội đồng ca 12 đứa, mặc quần áo lính thời cổ, đội nón chóp có tua trên đỉnh, chân quấn xà-cạp, đứng cầm ngọn dáo nhọn hoắt, chia ra tua tủa hai bên, mỗi bên 6 tên…hát bắt theo : « Trời âm u, gió tung, rú lên, rít lên ào ào… Rừng thông rên xiết dưới làn bão… »
*
Chính nhờ những hoạt
động ấy mà tôi bắt đầu say mê âm nhạc, tự tập nhạc lý, rồi năn nỉ thưa với cha tôi để Người mua cho tôi một cây đàn « băng-giô »…
*
Ông
Đang lúc ấy là Tổng Thư ký Hội TBQN, rất hay từ Hà Nội sang Đáp Cầu quê tôi kiểm tra,
thu thập kinh nghiệm để phổ biến cho các chi hội ở những địa phương
khác. Cha tôi cho biết « i tờ dấu móc cả hai, i ngắn có chấm
tờ dài có ngang… rồi O tròn như qur trứng gà, Ô thì đội mũ, Ơ là thêm râu» và nhiều câu vè dễ thuộc khác chính là do ông Đang đặt ra.
Mỗi lần sang Đáp Cầu, ông đều đến
nhà tôi đầu tiên. Tôi gọi ông là « bác » theo lối thông thường tôi vẫn gọi
các bạn cha tôi, không tính tuổi tác. Nhưng ông Đang bảo : « Gọi là « chú » thôi. Chú kém
tuổi cậu cháu nhiều… »
*
Cuối năm
1945 tôi ra Hà Nội, học trường Chu Văn An, thỉnh thoảng cũng gặp
« chú Đang » và nghe loáng thoáng bây giờ chú ấy làm to lắm…
Vì rất hay sang Đáp Cầu quê tôi, ông Đang gặp gỡ và quen biết khá
nhiều người, trước hết là những người tích cực tham gia hoạt động
của Chi Hội Truyền bá Quốc Ngữ,
nhưng ông thân với cha tôi nhất.
*
Tôi
có ông Bác, gọi bà nội tôi là cô ruột, sau 30-4-1975, tôi vào Sài Gòn có đến thăm ông. Ông tên là Ngô Thế
Trùy. Ông kể chuyện ông đã suýt bị Việt Minh xử tử như thế nào năm
1945. Vì bấy giờ, ông sống ở Thái Nguyên và là người giầu nhất thị
xã. Khi Việt minh nổi lên, ông bị tống giam, vì bị quy là « tư sản mại
bản, buôn bán thóc gạo với Pháp với Nhật…" Nhưng rồi đột nhiên, trước ngày
ra trường bắn, ông bỗng được thả. Thế là hai ông bà cùng con cái cuống quít thu vén, chỉ kịp nhét mấy bộ áo quần để thay đổi vào bị cói, bỏ nhà cao cửa rộng, chạy bán sống bán chết về
quê.
Năm sau ông đang tản cư thì lại bò vùng tự do, theo mấy người, « dinh
tê » vào Thành Hà Nội. Rồi năm 1954, sau Hiệp định Đình chiến Genève, ông bà lại khăn gói "chạy" di cư vào Sài Gòn…
Tóm lại là sau cái lần « hút chết » kia ông « quyết chí cao chạy
xa bay ». Ông kể tôi nghe chuyện vì sao ông được thả khỏi trại tử
tù Thái Nguyên…
"Theo bác biết, người « cứu » bác thì ra chính là ông Đang, bạn của cậu cháu. Chẳng là trong Quốc Dân Đại hội ở Tân Trào, ông Đang được cử vào Chính phủ Lâm Thời. Lúc xong Hội nghị, trên đường về xuôi, ông Đang ghé vào Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên, tất nhiên được đón tiếp rất long trọng. Bí thư Việt Minh tỉnh báo cáo với « Ủy viên Hội đồng chính phủ Lâm thời » về công tác của tình, trong có mục « Diệt Gian ». Khi xem danh sách những tội nhân sắp bị xử tử, ông Đang thấy có tên Ngô Thế Trùy. Không biết đấy là ai, nhưng thấy họ « Ngô Thế » là họ rất phổ biến ở Đáp Cầu, cùng với họ "Vũ Đình", hai tộc họ lớn nhất, ông đoán là người Đáp Cầu. Hỏi ra thì đúng là người gốc Đáp Cầu thật. Khi ông ấy hỏi tội gì thì Bí thư Tỉnh trả lời là «tên này nhiều tội lắm : tư sản mại bản, giầu có nhất tỉnh này, buôn bán thóc gạo với Nhật này, còn vô số tội khác… » Ông Đang nói : « Nếu không có tội chính trị mà chỉ là tội kinh tế thì không đáng bắn… » Thế là ngay sau đấy Tỉnh bộ Việt Minh ra lệnh thả bác… ». Bác Trùy nói thêm : « Bác đội ơn ông Đang nhiều lắm, nhưng không biết trả ơn cách nào… »
"Theo bác biết, người « cứu » bác thì ra chính là ông Đang, bạn của cậu cháu. Chẳng là trong Quốc Dân Đại hội ở Tân Trào, ông Đang được cử vào Chính phủ Lâm Thời. Lúc xong Hội nghị, trên đường về xuôi, ông Đang ghé vào Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên, tất nhiên được đón tiếp rất long trọng. Bí thư Việt Minh tỉnh báo cáo với « Ủy viên Hội đồng chính phủ Lâm thời » về công tác của tình, trong có mục « Diệt Gian ». Khi xem danh sách những tội nhân sắp bị xử tử, ông Đang thấy có tên Ngô Thế Trùy. Không biết đấy là ai, nhưng thấy họ « Ngô Thế » là họ rất phổ biến ở Đáp Cầu, cùng với họ "Vũ Đình", hai tộc họ lớn nhất, ông đoán là người Đáp Cầu. Hỏi ra thì đúng là người gốc Đáp Cầu thật. Khi ông ấy hỏi tội gì thì Bí thư Tỉnh trả lời là «tên này nhiều tội lắm : tư sản mại bản, giầu có nhất tỉnh này, buôn bán thóc gạo với Nhật này, còn vô số tội khác… » Ông Đang nói : « Nếu không có tội chính trị mà chỉ là tội kinh tế thì không đáng bắn… » Thế là ngay sau đấy Tỉnh bộ Việt Minh ra lệnh thả bác… ». Bác Trùy nói thêm : « Bác đội ơn ông Đang nhiều lắm, nhưng không biết trả ơn cách nào… »
Khi tôi kể ông Đang cũng đang bị
tù thì ông bác tôi im lặng. Ông không hỏi gì thêm mà chỉ im lặng. Có
vẻ ông đang suy nghĩ gì đấy… Nhân kể về ông Trùy, tôi muốn nói thêm đôi điều.
*
*
Bác là người thân trong gia đình
tôi. Chẳng là do hai cụ thân sinh bác mất sớm nên từ nhỏ bác đã được bà
nội tôi nuôi, dạy và gây dựng. Vì thế bác rất thân với cha tôi. Lúc
tôi về nhà bố mẹ, báo tin sắp vào Sài Gòn, bố mẹ có căn dặn
gì không, thì cha tôi chỉ muốn một điều : "Con cố tìm Bác Trùy và
nói với Bác một câu thôi, là “Cha
cháu rất nhớ bác ”.
Tôi đến Sài Gòn hôm trước thì hôm sau tìm đến
nhà bác. Mở cửa, vừa nhìn thấy tôi bác đã quàng tay ôm ghì lấy tôi, rồi
nghẹn ngào nói trong nước mắt : “Ôi,
Bác nhớ cậu cháu lắm !”
Sau đấy hai bác giữ tôi ở lại
một ngày đêm để “tâm sự”, coi tôi hoàn toàn như con đẻ, đứa con đi vắng bao
năm bây giờ trở về.
*
Bác gái kể : “Hồi mới vào đây, hai bác một xu dính túi
cũng không có. Bác trai chưa có công ăn việc làm ổn định, cứ suốt ngày đi lang thang các phố, xem ai có việc gì thuê
thì nhận làm. Cuộc sống khốn khổ lắm. Cái hôm giỗ Cụ, bác tính nghèo mấy, túng mấy cũng phải có mâm
cơm cúng. Vét hết thì chỉ còn tờ hai chục, vẫn để dành phòng khi
có gì bất trắc xảy
ra. Bác mang ra chợ Bến Thành, tính mua con gà nhỏ. Mặc cả
đồng ý mười hai đồng, bác đưa tờ hai chục, ai ngờ bà bán gà nhìn lầm tưởng tờ hai trăm, trả lại
một trăm tám mươi tám đồng. Người bác run lên. Cầm tiền trả lại xong,
bác vội vã chạy đi, như
chạy trốn, chỉ sợ bà bán gà nhớ ra... Bác vừa chạy vừa khấn, cầu hương hồn ông bà tha thứ và phù hộ… Chuyện
này về sau mỗi lần nhớ lại, bác ân hận lắm, nhưng nghĩ chắc chắn bà
bán gà ở chợ Bến Thành hôm ấy, không thể túng như bác. Bà ta buôn bán, mỗi ngày phải kiếm hàng trăm...
mà mình thì ngày giỗ cha mẹ không thể không có gì đặt lên ban thờ...Đã có lần bác ra dò la xem có thấy bà bán gà hôm trước không, nhưng không nhận ra được ai vào với ai...
*
Trong số chuyện Bác trai kể, có một câu chuyện xảy ra trong gia đình hai bác, rất lạ,
khiến tôi nhớ mãi. Chẳng là hai bác có anh con trai gần út, to khỏe, chơi thể
thao và học hành
đều giỏi, được tuyển đi học lái máy bay ở Hoa Kỳ. Nhưng khi chính thể
Cộng Hòa sụp đổ, anh mới học
xong năm đầu. Còn
phải học thêm một năm bên ấy nữa. Đúng lúc ấy, C.I.A. đang rất cần tuyển thêm người
bản địa để cài cắm thêm ở đây thời gian “hậu chiến”. Họ thương lượng với
anh nhưng anh từ chối. Họ cố thuyết phục, nhưng anh ấy vẫn nhất quyết : "Không !"
Thế rồi một hôm hai bác nhận được thông báo
của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, cho biết con trai bác ăn cắp bị bắt quả tang, xấu hổ quá, đã tự tử Kèm theo đấy là Thư tuyệt
mệnh của anh. Thư viết (tôi được bác cho xem, nhưng lâu quá rồi, không
nhớ từng chữ), đại khái : “Thưa
cha mẹ ! Tôi ăn cắp chiếc máy ảnh của bạn học, bị phát giác nên rất xấu hổ, không muốn sống
nữa. Tôi quyết định tự tử. Mong cha mẹ tha thứ. Ký tên.”
Hai bác đọc xong, thấy rõ ràng thư
giả vì nét chữ
rất lạ, thêm nữa anh con trai không bao giờ gọi hai
thân sinh bằng “cha mẹ” và xưng “tôi”
như thế. Bác trai kể
nỗi nghi ngờ cho một người bạn là nhà báo. Thế là số báo sáng hôm sau đưa
câu chuyện lên trang đầu với hàng chữ tít rất to chạy hết chiều ngang
trang báo : “TÒA LÃNH SỰ HOA KỲ LÀM TRÒ BỈ ỔI”... Báo bán chạy như tôm tươi và ngay trong ngày hôm ấy liên
tục phải in thêm
bản.
Hôm sau, tất cả báo chí Gài-gòn đều đưa tin với những tít còn dữ dội
hơn : “MỘT TỘI ÁC
MỚI CỦA HOA KỲ.” v.v... Câu chuyện lan nhanh như vũ bão khắp thành
phố, người ta bàn tán công khai, chưởi bới Tòa lãnh sự Hoa Kỳ...
Cuối cùng Tòa Lãnh sự phải gửi thư xin
lỗi, và hứa đưa thi hài nạn nhân về trao cho gia đình. Ít hôm sau,
hai bác nhận được một kiện hàng lớn bằng tôn, bên trong là bộ quan
tài bằng pha lê, nhìn thấy rõ khuôn
mặt khôi ngô, bình thản của cậu con trai, chỉ như đang ngủ.
Bác Trùy đưa cho tôi xem toàn bộ
hồ sơ vụ việc mà Bác chất đầy tủ sách, giữ lại làm kỷ niệm : các thư trao đổi giữa gia đình và Tòa Lãnh sự
Hoa Kỳ, những số báo có đăng bài xung quanh vụ scandal, cả toàn bộ những
tấm ảnh chụp, trước hết là chụp chiếc quan tài bằng pha lê từ nhiều
góc nhìn... Tôi đọc tất cả, xem kỹ các tấm ảnh chụp, và còn nhớ
một tấm ảnh chụp biển hiệu
hãng sản xuất
loại quan tài đặc biệt này, bằng đồng, có hàng chữ : “Sản phẩm số ... của Hãng... bảo đảm
trong vòng hai trăm năm thi hài bên trong không bị biến dạng.” Hai
trăm năm ! Kỹ thuật của họ quả là đáng nể.
Tôi có hỏi : “Bác giữ quan tài anh ấy ở chỗ nào, cháu muốn xem được không
ạ ?”
Bác Trùy cười buồn : “Giữ làm gì, cháu ? Bác đem ra nghĩa
trang chôn rồi. Hôm đám tang, rất nhiều nhà báo và dân chúng đến dự.
Họ chụp rất nhiều ảnh.”
HÀ NỘI 9/2015
V. Đ. P.
V. Đ. P.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét