Những nhà cải cách ‘bất thường’
Posted on 13/05/2016 by The Observer
Nguồn: Nina L. KHRUSHCEVA “The Improbable Reformers”, Project
Syndicate, 28/04/2016. (Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập:
Lê Hồng Hiệp)
*
Suốt những năm qua, Đức Giáo hoàng
Francis đã hồi sinh thông điệp cốt lõi của Giáo hội Công giáo thông qua những
chỉ trích nhiệt tâm đối với “chủ nghĩa tư bản không kiểm soát”, đi kèm một thế
giới quan mới tiến bộ hơn. Trong các cuộc bầu cử sơ bộ ở Mỹ, chiến dịch tranh
cử của Thượng nghị sĩ bang Vermont Bernie Sanders cũng đang làm điều tương tự
đối với Đảng Dân chủ – và rộng hơn là cho chính trường Mỹ.
*
Thông điệp của Sanders vay mượn khá
nhiều từ phong trào “Chiếm Phố Wall” (Occupy Wall Street – OWS), cũng như lời
kêu gọi dùng vũ lực chống lại bất bình đẳng kinh tế của phong trào này. Nhưng
thậm chí còn trước cả khi Sanders nổi lên như một ứng viên có thể trở thành đại
diện của Đảng Dân chủ, Giáo hoàng Francis đã giành được trái tim của hàng triệu
người với một thông điệp tương tự.
*
Giáo hoàng Francis đã lên án “khoảng cách ngày một gia tăng giữa những kẻ
giàu hơn và những người chỉ sống bằng vụn bánh.” Tầm nhìn của ông về “một
giáo hội nghèo và vì người nghèo” đã mang lại cho ông danh hiệu “Giáo Hoàng của
Nhân dân.” Vì thế cũng không có gì ngạc nhiên khi năm ngoái, ông đã mời nhà văn
và nhà hoạt động của OWS là Naomi Klein đến tham dự một hội nghị về môi trường
mà ông chủ trì tại Rome.
Năm nay, SANDERS cũng phát biểu tại
chính hội nghị này, nói rằng biến đổi khí
hậu là mối đe dọa an ninh nghiêm trọng nhất đối với thế giới. Những quan
điểm lâu nay của ông về chủ đề này cũng giống như của Giáo hoàng FRANCIS, người
mà trong một thông điệp mang tính đột phá đã chia sẻ quan điểm với cộng đồng
khoa học về vấn đề biến đổi khí hậu. Cả Sanders và Francis đều gắn suy thoái
môi trường với chủ nghĩa tư bản không kiểm soát, nhấn mạnh rằng các nước nghèo
nhất thế giới đang phải gánh chịu hậu quả quá lớn từ tác động môi trường của
các hoạt động vốn thường làm giàu cho các nước giàu nhất.
*
Thậm chí trong các chủ đề liên quan đến tình yêu và gia đình, Giáo hoàng
Francis cũng tiến bộ hơn so với các bậc tiền nhiệm của ông. Dù tư tưởng của
giáo hội Công giáo vẫn cho rằng hôn nhân là sự kết hợp không thể phá vỡ giữa một
người nam và một người nữ, thì những lời lẽ khoan dung đối với người đồng tính
và người ly dị của ông vẫn rất bất ngờ, nếu không muốn nói là mang tính đột
phá.
*
Có một sự tương đồng thú vị giữa Sanders
và Giáo hoàng Francis: đó là cả hai đều đang chuẩn bị bước sang tuổi 80. Thoạt
nhìn thì quả là kỳ lạ, khi mà những người đàn ông tuổi hưu này lại là những
nhân vật hàng đầu đang gợi cảm hứng và nói lên tiếng nói cho giới trẻ trong
việc tìm kiếm sự thay đổi mang tính cách mạng. Nhưng thực ra mối liên hệ này cũng
không đáng ngạc nhiên. Bởi suy cho cùng thì khi nói đến sự phẫn nộ về những bất
công trên thế giới, người già cũng có thể nhiệt huyết như người trẻ.
Tác động của Sanders và Giáo hoàng Francis lên giới trẻ còn được tăng
cường bởi cảm giác rằng, đối với cả hai, sự thật và đạo đức quan trọng hơn sự
tự cao hay làm giàu. Cả hai đều thể hiện sự khiêm tốn – Giáo hoàng Francis đã
từ chối lối sống kiểu vương giả của các bậc tiền nhiệm, còn tài sản ước tính
của Sanders thì thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình của một thượng nghị sĩ
Mỹ – và bất chấp những quan điểm tiến bộ của họ, họ lại là những người (có
phong cách) rất không hiện đại.
Hơn nữa, trong một chừng mực nào đó,
Sanders và Giáo hoàng Francis đều tương đối là những “người ngoài cuộc”.
Sanders có thể đã có một sự nghiệp lâu dài trong nền chính trị Mỹ, nhưng ông
chỉ đại diện một bang nhỏ theo xu hướng tự do – bang Vermont, và ông thành tâm
lên án thứ chính trị tiền bạc vốn có vai trò sống còn đối với phần lớn các
chính trị gia. Về phần mình, Giáo hoàng Francis là Giáo hoàng người Mỹ Latinh
đầu tiên, và cũng là người đầu tiên lên án bất bình đẳng kinh tế mạnh mẽ như
vậy.
*
Tất nhiên, Francis không phải vị
Giáo hoàng đầu tiên lên tiếng về vấn đề này. Trong thực tế, Hội nghị Giáo Hoàng
năm nay đã kỷ niệm lần thứ 25 năm Thông điệp của Giáo hoàng John Paul II về
những cạm bẫy đạo đức của nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa.
Nhưng John Paul II, vốn xuất thân từ
nước Ba Lan cộng sản, cũng kiên quyết phản đối chủ nghĩa cộng sản; quả thực,
ngài đã đóng vai trò quan trọng trong sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Trung
và Đông Âu. Dù rằng cả Francis và Sanders đều không ủng hộ chủ nghĩa cộng sản,
nhưng họ lại đang tìm cách hồi sinh, với các mức độ khác nhau, khát vọng ban
đầu của chủ nghĩa cộng sản, đó là tạo ra một tình huynh đệ giữa mọi người.
*
Mikhail GORBACHEV – một nhà cải cách
theo đuổi các giá trị nhân văn khác – cũng đã có một khát vọng tương tự trong
những năm 1980. Thú vị là ông đã lấy cảm hứng từ quan điểm của John PAUL II,
rằng người dân sẽ không được tự do trừ khi chính họ được lựa chọn hệ thống
chính quyền và tham gia xây dựng các luật lệ cho chính họ, và Gorbachev đã cố
gắng thúc đẩy dân chủ hóa trong hệ thống cứng nhắc của Liên Xô.
Bằng cách đưa ra thông điệp về công lý
cho các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, Gorbachev tin tưởng chắc chắn rằng ông
có thể làm hồi sinh thứ ý thức hệ đang chết dần của Liên Xô. Và, trong một
khoảnh khắc ngắn, ông đã làm được điều đó. Khi Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô
lần thứ 19 do Gorbachev chủ trì được tường thuật trên sóng truyền hình vào năm
1988, cả đất nước nín thở xem nhà lãnh đạo trẻ của mình công khai tranh luận về
các ý tưởng cải cách của ông, nhất là với nhà bất đồng chính kiến Andrei
Sakharov, một nhà vật lý hạt nhân và nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng.
*
Tất nhiên, cuối cùng thì cấu trúc cứng
nhắc của Liên Xô đã không thể được cứu vãn; nhưng phần lớn nhờ vào sự tử tế căn
bản của Gorbachev, sự tan rã của Liên Xô năm 1991 đã diễn ra khá yên bình. Ông
đã tạo ra được một môi trường mà trong đó các nhu cầu thay đổi triệt để đã dẫn
đến thỏa hiệp, chứ không phải sự giận dữ – trái ngược với sự tan rã đầy bạo lực
của Nam Tư.
Giống như Giáo hoàng Francis và
Sanders, Gorbachev là một nhà cải cách bất thường. Dù lên nắm quyền với sự hỗ
trợ của KGB, ông đã không để tư tưởng của mình bị chi phối bởi bộ máy đó, giống
như cách mà Tổng thống Vladimir Putin rõ ràng đang làm. Tương tự như vậy, thay
vì ép mình vào khuôn khổ của Đảng Dân chủ, Sanders đang cố gắng để kéo Đảng này
trở lại “cánh tả dân chủ xã hội, nơi mà nó thuộc về.” Còn ở Vatican ngày nay,
rất nhiều người không thể hiểu được cách tiếp cận của Giáo hoàng Francis, họ
xem các thông điệp của ông về lòng thương xót đang “làm loãng đi” Giáo lý Công
giáo.
Các đối thủ của Sanders và Francis có
thể chưa già, nhưng họ đại diện cho những người lớn tuổi, trong khi các nhà cải
cách “bất thường” này, dù lớn tuổi, lại đang nói lên tiếng nói của giới trẻ.
Tháng 8/1991, một âm mưu đảo chính chống lại Gorbachev đã thất bại vì ông được
những người trẻ tuổi ủng hộ, trên các đường phố Moskva lẫn tại các thành phố
khác, trong các xe tăng và các quân đoàn Liên Xô. Đó là sức mạnh của giới trẻ –
một sức mạnh mà Sanders đang khai thác. Nếu Hillary Clinton đánh bại Sanders
trong cuộc đua giành đề cử của Đảng Dân chủ, và có nhiều khả năng sẽ là vậy, thì
bà sẽ bỏ qua sức mạnh ấy mà không lường được rủi ro cho điều đó.
*
(Nina
L. Khrushcheva, tác giả của các cuốn sách Imagining Nabokov: Russia Between
Art and Politics và The Lost Khrushchev: A Journey into the Gulag of the
Russian Mind, là Giáo sư ngành Quan hệ Quốc tế và Phó Hiệu trưởng Trường Đại
học The New School tại New York. Bà cũng là nghiên cứu viên cấp cao tại Viện
Chính sách Thế giới.)
- See more
at:
http://nghiencuuquocte.org/2016/05/13/nhung-nha-cai-cach-bat-thuong/#sthash.Dswn2xrE.dpuf
Thatcher:
Chúng tôi đã tiêu diệt Liên Xô như thế nào?
Posted on 06/05/2016 by The Observer
Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Sau khi thôi chức Thủ tướng Anh
khoảng một năm, tháng 11/1991 bà Margaret Thatcher sang thăm Mỹ. Ngày 18, với
tư cách khách danh dự, bà được mời tới nói chuyện tại Hội nghị của Viện Dầu mỏ
Mỹ (American Petroleum Institute, API)
đang họp ở Houston (trước khi chuyển sang làm chính trị, bà Thatcher từng là
một chuyên gia hóa học). Dưới đây là một số nội dung chính trong bài nói chuyện
kéo dài chừng 45 phút của bà.
Liên Xô là quốc gia tạo ra mối đe
dọa nghiêm trọng đối với thế giới phương Tây. Tôi không nói về sự đe dọa quân
sự, vì xét về bản chất mối đe dọa đó không tồn tại. Các quốc gia [phương Tây]
chúng tôi được trang bị tốt, kể cả vũ khí hạt nhân.
Tôi muốn nói về mối đe dọa kinh tế.
Với nền kinh tế kế hoạch kết hợp cùng các biện pháp kích thích về tinh thần và
vật chất, Liên Xô đạt được những chỉ tiêu kinh tế cao. Tốc độ tăng trưởng GNP
cao gần gấp đôi nước chúng tôi. Nếu xét tới nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú của họ, giả thử nền kinh tế ấy được vận hành hợp lý thì Liên Xô hoàn toàn
có khả năng đẩy chúng tôi ra khỏi thị trường thế giới. [………]
Bởi vậy chúng tôi phải luôn luôn
hành động nhằm làm suy yếu nền kinh tế của Liên Xô, gây ra các khó khăn kinh tế
tại nước này, nơi cuộc chạy đua vũ trang đóng vai trò chủ yếu.
Một mặt quan trọng trong chính sách
của chúng tôi là quan tâm tới các nhược điểm trong Hiến pháp của Liên Xô. Hiến
pháp này về hình thức đã tạo điều kiện cho bất cứ nước cộng hòa nào thuộc liên
bang nếu có nguyện vọng thì có thể nhanh chóng rút ra khỏi Liên bang Xô-viết
thông qua quyết định của Xô-viết Tối cao (tương đương Quốc hội – NBT) nước cộng
hòa đó và bằng một đa số đơn giản [của các đại biểu Xô-viết Tối cao].
Sự thực là do vai trò kiên định của
Đảng Cộng sản và của các cơ quan an ninh, quyền lợi đó [quyền rút ra khỏi Liên
bang] trên thực tế đã không thể thực hiện. Nhưng nét đặc thù này của Hiến pháp
Liên Xô đã tạo ra cho chính sách của chúng tôi những khả năng tiềm tàng trong
tương lai.
Đáng tiếc là, bất chấp những cố gắng
lâu dài của chúng tôi, tình hình chính trị của Liên Xô vẫn ổn định trong thời
gian dài. Chúng tôi rơi vào một tình huống khó khăn, nhưng chúng tôi đã nhanh
chóng nhận được một báo cáo về sự qua đời sớm của nhà lãnh đạo Liên Xô[1]
và về khả năng lên cầm quyền (với sự giúp đỡ của chúng tôi) của một người mà
qua đó chúng tôi có thể thực hiện ý định của mình trong lĩnh vực này. Đây là
nhận định của các chuyên gia của tôi. Tôi thường xuyên hỗ trợ việc hình thành
một nhóm chuyên gia giỏi về vấn đề Liên Xô và khi tình hình có nhu cầu, nhóm
này khuyến khích các chuyên gia về Liên Xô di cư [sang phương Tây].
Người đó là Mikhail GORBACHEV. Các
chuyên gia chúng tôi đánh giá ông này là người thiếu cẩn trọng, dễ dàng chịu
tác động từ bên ngoài, và rất có tham vọng. Gorbachev có quan hệ tốt với hầu
hết giới tinh hoa chính trị Liên Xô, vì thế với sự giúp đỡ của chúng tôi, ông
ta có khả năng lên nắm quyền.
Hoạt động của Mặt trận Nhân dân[2]
không đòi hỏi đầu tư lớn: chỉ cần cung cấp kinh phí mua máy sao chụp và tài trợ
cho các nhân viên Mặt trận. Dẫu sao chi phí tài trợ cho cuộc bãi công dài ngày
của thợ mỏ Liên Xô tốn kém hơn nhiều. Các chuyên gia của chúng tôi tranh luận
nhiều về vấn đề có nên cử Boris Yeltsin làm nhà lãnh đạo Mặt trận Nhân dân hay
không, xét tới triển vọng ông ta có thể được bầu vào Xô-viết Tối cao của Liên
bang Nga, nhằm đối trọng với ban lãnh đạo của Gorbachev.
Hầu hết các chuyên gia đều phản đối việc đề cử YELTSIN do xét tới cá tính đặc biệt và quá khứ của ông ta.
Thế nhưng chúng tôi đã tiến hành các
cuộc tiếp xúc, thỏa thuận và quyết định đề cử Yeltsin đã được tán đồng. Tuy gặp
những khó khăn lớn nhưng Yeltsin đã được bầu làm Chủ tịch Xô-viết Tối cao Nga
và lập tức thông qua bản tuyên bố về chủ quyền của nước Nga.
Nguyễn Hải Hoành dịch và chú thích.
Nguồn: http://mamchenkov.net/wordpress/2013/04/09/the-ussr-is-a-country-that-poses-a-serious-threat/
có đối chiếu với
Ghi chú của người dịch:
Bản tiếng Anh chúng tôi dùng để dịch lấy từ một blog có tên Mamchenkov, với đầu đề “Liên Xô là quốc gia đe dọa nghiêm trọng … ” .
Do chưa tìm được bản gốc trong các hồ sơ lưu trữ của Quỹ M. Thatcher, nên chúng tôi chưa thể khẳng định tính chính xác của bài này. Tác giả Павлов cho biết đây là tổng hợp ghi chép của các đoàn viên đoàn đại biểu dầu khí Liên Xô (mà ông là một thành viên) dự hội nghị của Viện Dầu mỏ Mỹ (API) họp ở Houston tháng 11/1991. Hôm đó bà Thatcher đến nói chuyện mà không được báo trước là đoàn Liên Xô có mặt tại hội nghị này, vì thế có thể bà đã nói “hớ”, do đó bài nói này không được báo đài Anh, Mỹ đăng tải và hồ sơ của Quỹ M.Thatcher cũng không giữ lại. Bản tiếng Nga có thêm một số chi tiết không có trong bản tiếng Anh của Mamchenkov. Bài này đã gây ồn ào trong dư luận Nga hồi đó. Tuy nhiên, như đã nói, mức độ xác thực của các thông tin trong bài vẫn chưa được khẳng định.
—————-
[1] Ý nói cái chết sớm của Tổng Bí thư ĐCSLX Konstantin
Chernenko, mới nhậm chức được hơn một năm (13/2/1984~10/3/1985) đã qua đời ở
tuổi 73.
[2] Popular Front : một tổ chức thành lập tại các nước
Cộng hòa Xô viết vùng Baltic vào cuối thời kỳ Gorbachev, với khẩu hiệu “đòi chủ
quyền, đòi độc lập”.
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/05/06/chung-toi-da-tieu-diet-lien-xo-nhu-the-nao/#sthash.ODLKymzA.dpuf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét