Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

ĐỐI PHÓ VỚI NGHỊCH CẢNH




                       ĐỐI PHÓ VỚI NGHỊCH CẢNH

         Một số bạn bè và người thân không may rơi vào nghịch canh, nhân quan sát họ tôi thấy mỗi người có cách riêng làm giảm nhẹ cái nghịch cảnh ấy.

Họa sĩ PHAN TẠI

          Gặp lại anh lúc đã ra tù và nghe anh kể, tôi rất thán phục cách đối phó, đúng ra là cách “xử sự” của anh thời gian anh "trong trại". 
          Theo anh kể, khi nghe Tòa tuyên bố hình phạt, anh đã tự nhủ: “Tù Việt Cộng thì khó mà ra được. Nói năm năm, mười năm hoặc bao nhiêu năm đi nữa chỉ là nói thế thôi, chứ họ muốn giam mình bao lâu cũng được. Quyền trong tay họ, tòa án trong tay họ...” Và anh quyết định, đành phải thích ứng với hoàn cảnh mới, không có cách nào khác. Coi là chuyển sang một cuộc sống mới và coi nó là lâu dài, đừng bao giờ nghĩ đến chuyện “ra”... Nếu một ngày nào đấy được ra thì tốt, còn nếu không cứ ở tù mãi cũng vẫn sống được, quan trọng là phải chuẩn bị tinh thần sẽ ở cho đến hết đời.
          Vào “trại” Phan Tại bắt đầu coi cuộc sống trong “trại” là bình thường và chấp nhận nó một cách nhẹ nhõm, nếu không nói là “vui vẻ”. Nhờ từ thuở nhỏ đã quen sống kham khổ, lành mạnh và nghĩ rộng nên anh thích ứng được rất nhanh.
                                                                               *
         Phạm nhân trong trại hầu hết là là thường phạm, đa số rất táo tợn, và đều trẻ tuổi hơn anh. Phan Tại quan sát, theo dõi tính cách từng người rồi liệu tìm cách “thích ứng”, thí dụ cậu nào có tính nóng nảy thì ta phải điềm tĩnh, không kích thích cái nóng nẩy ấy lên, cậu nào lành nhưng cục tính thì lại phải dùng cách khác, cậu nào thích “hưởng”, cậu nào thích tri thức, v.v... 
        Phan Tại cố gắng giữ bình tĩnh và bao giờ cũng có thiện chí nên dễ thuyết phục và cảm hóa bất kể loại người nào. Thêm vào đấy, anh luôn có những lời khuyên nhủ chân thành của một người anh rộng lượng, quan tâm và muốn điều tốt cho “đứa em".  Chỉ sau một tuần đầu tiên, cả phòng, rồi cả trại đều mến anh.
                                                                              *
        Tất nhiên nguyên nhân chính là Phan Tại bản chất tốt, không kiêu căng, hợm hĩnh, không khinh người, rất kiên nhẫn và rộng lượng, dễ thông cảm và tha thứ cho những thiếu sót của người khác, kể cả những ai có tính cục súc, hay gây gổ. Cách xử sự ấy không chỉ giúp anh an toàn mà còn làm những người khác ngày càng hiểu và quý anh, thậm chí biết ơn anh. Anh luôn có ý nghĩ muốn “giúp” người khác, một cách nghĩ chỉ ít người có được.
        Thí dụ đi lấy gỗ trong rừng, anh quan sát, suy nghĩ và tìm ra cách khiêng vác nào nhẹ nhõm nhất và đi được nhanh nhất, đồng thời lại an toàn, ít khả năng gây tai nạn hay thương tích. Đi lấy lá cọ về làm mái che lán ngủ, anh nghiên cứu và tìm ra cách chọn lá cọ thế nào để không non đến mức dễ bị héo mà cũng không già quá đến mức dễ bị gẫy... và dễ lợp. 
         Dần dần Phan Tại được anh em tù nhân tin cậy và khâm phục, mỗi khi gặp khó khăn thường hỏi ý kiến anh. Lần nào anh cũng cố nghĩ cách giúp họ ở mức tốt nhất. Bạn tù dần dần biết ơn, nhận được quà của gia đình thường chia cho “thầy” một phần, có khi chỉ là bao thuốc lá, vài cái kẹo... dù ít dù nhiều anh đều quý và biết ơn.
                                                                              *
       Để tạo thêm quan hệ thân tình với anh em cùng trại, cũng là tạo cho bản thân mình một cách sống chan hòa, vui vẻ, một cảm giác đầm ấm trong cái cộng đồng nhỏ này, Phan Tại nghĩ ra thêm một “sáng kiến” là kể chuyện. Thế là tối tối và cả những ngày mưa gió, không ra rừng lao động được, anh kể cho họ nghe những cốt truyện hay, thường là ly kỳ, éo le, thí dụ Ba Người lính Ngự lâm của A. DUMAS, Những người khốn khổ của V. HUGO, Trà hoa nữ của DUMAS-CON, Aivanhô của W, SCOTT... Thấy anh hiểu biết và tốt bụng, bắt đầu lẻ tẻ có tù nhân nhờ anh hướng dẫn học văn hóa, nhất là ngoại ngữ Pháp và Anh. Những ngày lễ và ngày kỷ niệm, Ban quản lý trại giao anh lo việc trang trí, viết khẩu hiệu, bầy biện hội trường... Anh không nề hà, việc gì cũng làm.
        Vốn là người có nhiều phẩm chất đáng quý, lại có nhiều “tài vặt”, nhất là do đã “xác định” không tính đến "ngày ra”, Phan Tại quen dần với cuộc sống trong tù và lấy lại được niềm vui, cảm giác dễ chịu ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Anh thích ứng tốt đến nỗi sau khi ra tù ít lâu, anh than phiền với tôi là ra ngoài khổ hơn trong tù. Có gì đâu, anh xin việc không đâu nhận, kể cả hợp tác xã thủ công, cuối cùng anh phải ra bãi sông Hồng xúc cát thuê cho đám đầu nậu, xúc đầy một xe ba gác  được trả công vài đồng, chỉ đủ ăn cơm không... Đã vất vả, anh còn bị chúng chửi bới, đá đít, bạt tai mỗi khi anh làm chậm, không kịp xúc đầy cho chúng kéo xe cát lên đê...
        Thêm vào đấy, ra tù Phan Tại còn phải chăm lo cho gia đình. Trong mười mấy năm anh ở tù, gia đình gần như tan nát, vợ không có việc làm (chị rất đẹp, đẹp đến mức hiếm thấy) phải hầu hạ mấy quan chức chức cao lắm quyền và lắm tiền, con cái học hành dở dang và bắt đầu hư hỏng... Anh nhiều lần bảo tôi : “Lắm lúc mình thoáng nghĩ, chẳng lẽ lại xin quay về “trại”.
         May thay, dần dần anh ổn định được mọi thứ (một phần do bạn bè quý anh giúp đỡ) và lại bắt đầu hoạt động nghệ thuật trở lại... Tôi đã chứng kiến có người học trò cũ của Phan Tại, sống ở Pháp, nhân dịp về nước, ghé thăm thầy, thấy chồng hóa đơn điện nước rất dầy, đã rút ví ra thanh toán "một phát" hết nhẵn. 
         Nhìn những tác phẩm điêu khắc và những bức tranh, tôi rất phục tài anh, trong số ấy tôi thán phục nhất là bức tượng nửa người nhà văn Nguyễn Tuân. Đúng là Nguyễn Tuân, không thể là ai khác. Từ vầng trán cao, cặp mắt như muốn biết mọi thứ và muốn hiểu tất cả nguyên nhân sâu xa của những thứ ấy...đến cái miệng vừa chua chát vừa hóm hỉnh...
                                                                          *
        Mấy năm cuối đời, Phan Tại còn loay hoay tổ chức một đội biểu diễn kịch nghiệp dư, vì ngày trước anh đã từng hoạt động sân khấu và điện ảnh kiểu "tài tử"... Anh mời tôi đạo diễn và vở kịch tôi dịch “Con Vịt Mồi” có hai nữ nghệ sĩ bây giờ danh tiếng nổi như cồn...tham gia, đã gần ra mắt khán giả được thì đột nhiên đội bị yêu cầu giải tán... Rất đáng tiếc !

PHÙNG CUNG

        Tôi may mắn quen Cung từ trước khi anh bị giam giữ. Giám đốc Nhà xuất bản Văn học hồi ấy (nhà văn Tô Hoài) đã nói với tôi nhận xét, đại ý : “Thằng cha này thông minh đặc biệt, óc tưởng tượng sáng tạo rất tốt và lại có tính hài hước, chỉ tiếc cách châm biếm của cậu ta dễ làm ngưới khác “nổi máu”. Nhưng mình hy vọng cậu ta sẽ sửa được...
        Sau một thời gian chơi thân, gặp Cung gần như hàng ngày, tôi phải ngưng lại vì bị đắm chim trong mớ công việc của Vụ Nghệ thuật, chỉ có thể theo dõi anh từ xa, rồi biết anh bị kết án tù chứ không có dịp gặp lại ...
        Cho đến khoảng năm 1978 hay 79, tôi không nhớ... một hôm đang đạp xe trên phố Mai Hắc Đế, bỗng nghe tiếng người gọi to : “Phòng ơi !” tôi ngẩng đầu lên, thấy Cung đứng trên ban công tầng hai ngôi nhà liền đấy. Anh bắc tay lên miệng nói to : “Lên đây !” Tôi dựng và khóa xe rồi chạy lên thang gác. 
         Cung cho biết mới “ra” chưa được một tuần, rồi trỏ cái ghế tôi đang ngồi “Thi (Nguyễn Đình Thi) cũng vừa ngồi chỗ cậu đang ngồi ấy.” Cung cho biết bây giờ chỉ làm thơ về thiên nhiên về cây cỏ, hoa lá... nói đến đấy anh cười, cái cười chúm chim tôi đã rất quen thuộc, và anh nói thêm “cho nó lành”... Tôi hỏi sống bằng gì, anh cho biết có một cái máy nhỏ làm đanh (cắt giây thép ra từng đoạn rồi giập cho đầu có mấu), đem ra chợ Hôm bán buôn cho mấy bà có sạp bán lẻ tạp hóa... Nhờ thế, cũng tạm đủ sống. Được cái chị Cung rất thương chồng, tháo vát, chịu khó và đảm đang nên cuộc sống cũng không đến nỗi nào.
          Tôi hỏi chuyện trong tù, anh kể : “Tao hay cãi nên bọn giám thị thù, bắt tao ngồi xà-lim biệt giam suốt”. Nói xong anh cười hềnh hệch, vẫn nụ cười hóm hỉnh bằng cặp môi chúm chím, giống hệt cái hôm (đã lâu lắm rồi, từ ngày anh vừa mới công bố “Con ngựa già của Chúa Trịnh”), anh kể tôi nghe tóm tắt truyện ngắn anh đang viết về một cậu bé mười tuổi, nhà rất nghèo, áo quần rách rưới, bụng đói meo, đêm 30 Tết chen trong đám đông giầu có, ăn diện đi chơi Tất niên, xem chợ Hoa Phố Hàng Mã rồi ra hồ Hoàn Kiếm đón Giao thừa. Thằng bé rách rưới, bụng đói meo nhưng cứ chui lách dưới chân dòng khách đông nghìn nghịt, hy vọng nhặt được đồng xu nào của ai đánh rơi...
          Cái tính bướng và thích cãi lý ấy của Cung, nghe ai nói trái tai là không chịu được, phải cãi, làm anh ta gần như bị cùm chân, xích tay trong xà lim suốt thời gian tù. À quên, hôm ấy anh còn bảo tôi : “Thằng nào ngồi tù chưa đủ mười lăm năm thì đừng dám khoe là đi tù nhé ! Tối thiểu là mười lăm năm, mày hiểu không ?" Rồi lại cười hềnh hệnh bằng cặp môi chúm chím rất có duyên.

LÊ ĐẠT

         Lê Đạt lại khác hai người tôi vừa kể ở chỗ không bướng kiểu Phùng Cung để bị xích tay cùm chân nằm một mình trong xà lim, cũng không điềm tĩnh, khéo léo (và rộng lượng) như Phan Tại. Cái lợi thế của Lê Đạt là “cười” – không phải cười mỉa mai mà là cười tán thưởng, thậm chí thích thú. Cái cười ấy anh có từ thời học Trường Bưởi (trên tôi mấy lớp). Lúc nào cũng cười và cái cười thoải mái, hồn nhiên, nhe bộ răng không lấy gì làm "mỹ thuật" cho lắm. Cách cười ấy để lại dấu ấn cho tôi rất lâu sau này... cái cười không điệu bộ, giả dối chút nào. Chuyện không đáng cười anh cũng cười, hình như anh nhìn thấy trong mọi sự đời cái mặt “buồn cười” của nó, Cái buồn cười ở đây không mỉa mai mà chân thành, hồn nhiên như đứa trẻ. Thêm vào đấy Lê Đạt rất đồng cảm với mọi người, không kiêu kỳ, mà rộng lượng. Sau này giao du nhiều với lớp trẻ chỉ bằng tuổi con cháu, anh vẫn bình đẳng thật lòng, chứ không “bình đẳng” kiểu giả vờ.
          Lần cuối cùng tôi gặp anh là lúc hai vợ chồng tôi đi dạo xung quanh Hồ Hoàn Kiếm vào một buổi sáng Chủ Nhật. Lê Đạt gọi : “Phòng ơi !” Tôi quay sang và thấy anh, vẫn nụ cười tươi roi rói. Tôi hỏi thăm sức khỏe chị Thúy, anh trả lời : ”Vẫn thế.” Rồi anh hỏi luôn : “Mình vẫn mất ngủ, Phòng ạ, Bây giờ nâng đến ba viên rồi mà vẫn khó ngủ. Có cách nào không ?” Chia tay xong, bỗng tôi giật mình, bận quá, lâu không đến nhà anh nên không biết chị Thúy vợ anh có còn sống với anh không, thậm chí có còn sống không ấy chứ... Trước chị làm diễn viên trong Đoàn Kịch nói Trung ương, hai chị em rất quý nhau và chị có lối cứ gọi tôi là “em” mặc dù chỉ hơn tôi một tuổi. Câu hỏi của tôi liệu có ngớ ngẩn, vô duyên không đấy. Tôi tiếp tục đi dạo bên vợ và suy nghĩ vẩn vơ về một số “đồng môn” học trên và số cùng năm, học ở Trường Bưởi ngày trước và Chu Văn An bây giờ. Sau lần gặp ấy vài tháng thì nghe tin anh mất.
         Tôi còn nhớ hồi tuần báo Văn Nghệ in ở nhà in Lê Văn Tân cuối phố Hàng Bông (bấy giờ mới tiếp quản Thủ đô, chưa “cải tạo tư sản”, vẫn còn nhà in tư nhân. Sau này nhà in Lê Văn Tân này bị “quốc doanh hóa” và đổi tên là nhà in Thống Nhất). Ban biên tập bấy giờ có Xuân Diệu, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Bính, Lê Đạt... Lúc ấy tôi là cán bộ gọi là “quản lý xuất bản” công tác trong Phòng Quản lý Xuất bản của Nhà In Quốc Gia (tiền thân của Cục Xuất bản hiện nay) và được phân công “quản lý” một số đơn vị thuộc lĩnh vực “văn nghệ”, trong ấy có Nhà Xuất bản Văn Nghệ và báo Văn nghệ, cho nên bao giờ cũng có mặt trong cái đêm in số báo mới.
         Những đêm ấy tất cả Ban Biên tập đều có mặt để chờ xem số báo đầu tiên còn thơm mùi mực vừa ra khỏi cỗ máy in kiểu cổ nặng nề... tất cả, người đứng hoặc ngồi trong chiếc đi-văng bọc nệm và mấy chiếc ghế bành kê xung quanh bàn nước. Tôi vừa theo dõi vừa quan sát các thành viên của Ban biên tập. Mỗi người một vẻ. Xuân Diệu thì yểu điệu như con gái lúc nào cũng nghiêng mái tóc xoăn cười duyên như đang chài đàn ông và chỉ đi đi lại lại, hầu như không ngồi. Và lần nào ông cũng đứng chờ bên máy in, đợi số báo đầu tiên in xong là đỡ lấy, bước ra phòng khách, vừa đi vừa hít hít, nói ra vẻ “ta đây quen thuộc và nghiện loại công việc này”: “Chà, mùi mực thơm quá, các vị ơi !” rồi đưa ông Đang. Ông này lại chỉ ngồi trong ghế bành, vẻ mặt bình thản, nghiêm chỉnh, thậm chí đạo mạo, rất ra dáng đàn anh, và được mọi người trọng thị. Nguyễn Bính thì hình nư cảm thấy mình "lạc lõng", chỉ ngồi ở chiếc ghế đầu bàn, nghe và hầu như không nói gì. Người nói nhiều nhất là Lê Đạt, dáng vẻ láu táu, đi đi lại lại như con rối, lúc nhanh lúc chậm và luôn miệng nói, và bao giờ cũng vừa nói vừa cười, cái cười toác miệng, nhe hai hàm răng không đều đặn gì nhưng rất dễ mến. Sau này trong trại giam, chính cái cười “dễ mến” kiểu ấy làm anh đỡ bị “trù” thì phải, là tôi đoán thế, vì sau này gặp lại anh, mấy lần định hỏi nhưng cả hai anh em đều bị cuốn vào chuyện khác... Lúc ấy anh và tôi có quá nhiều chuyện để nói... từ những kỷ niệm hồi học Bưởi đến bình phẩm về những con người hai anh em cùng quen biết ở Hội, Báo, Nhà xuất bản... Tôi nhận thấy thái độ anh bao giờ cũng công bằng,,, Điều hết sức đáng quý, không dễ có được.

PHÙNG QUÁN

       Tôi quen Quán lần đầu tiên hôm anh đem bản thảo tiểu thuyết “Vượt Côn đảỏ” đến Nhà In Quốc Gia, ở số nhà 44 Phố Tràng Tiền, nơi bấy giờ tôi làm việc. Từ ngày chuyển ngành, ra khỏi quân đội, tôi vẫn không hết khó chịu với lối phong quân hàm ta mới học được của quân đội Tầu, khiến việc phân cấp hiện ra lộ liễu : tất cả quân nhân đều mặc quân phục màu rêu, nhưng cấp chỉ huy từ đại đội phó trở lên được phong sĩ quan, áo may bốn túi, còn từ trung đội trưởng trở xuống không được là “sĩ quan” thì áo chỉ có hai túi ngực. Đám bạn bè quen biết chúng tôi mỗi khi nói về ai hay hỏi : “Bốn túi hay hai túi”. Do đấy khi thấy Quán mặc quân phục, tôi chú ý ngay đến số túi và hài lòng khi thấy Quán cũng chỉ hai túi, có nghĩa cũng một giuộc như mình. Và tôi mến anh ngay từ lúc ấy. Thêm vào đấy tôi nhận thấy anh lành hiền, nói giọng Huế nhỏ nhẹ, thậm chí thẹn thò như con gái.
        Bản thảo cuốn tiểu thuyết đã được ban biên tập NXB Quân đội Nhân dân đánh máy cẩn thận, có nghĩa “đã được thông qua” vì chúng tôi không quan hệ trực tiếp với tác giả mà chỉ quan hệ với Ban biên tập các Nhà Xuất bản. Nói chuyện vài câu làm quen, tôi thấy Quán cởi mở, lại trạc tuổi nhau nên dễ gần. Anh về thì tôi bắt tay ngay vào làm nhiệm vụ. Cuốn sách cuốn hút tôi ngay từ trang đầu, vị “Côn Đảo” luôn kích thích trí tò mò của tôi, từ khi tôi hát ca khúc của nhạc sĩ Đỗ Nhuận : “Kìa xa xa nơi Côn Đảo ...” ở dàn Ca nhạc Thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam.
        Tôi đọc và rà soát lại bản thảo rất cẩn thận, trong lòng vừa mến vừa phục tác giả. Hai tháng sau sách được in, phát hành và bán rất chạy, chứng tỏ được người đọc hoan nghênh đặc biệt.
Sau đấy Nhà In Quốc Gia giải tán để thành lập Cục Xuất bản, tôi được cho đi học tiếng Nga tại Trường Ngoại ngữ và không tiếp xúc với giới văn chương, trừ một số ít tôi quen từ trước. Ra trường tôi được phân về Vụ Nghệ thuật và tham gia vào xây dựng tiết mục Xô-viết đầu tiên “LU-BA”, đảm nhiệm một vai trong ấy. Từ bấy giờ tôi rất ít gặp Quán và nếu gặp cũng chỉ hỏi thăm qua loa. Cho đến ngày anh bị “nạn”, may không bị tù, chỉ phải ra khỏi Phòng Văn nghệ Quân đội và chuyển sang Vụ Văn hóa quần chúng Bộ Văn hóa, tôi lại có nhiều dịp để gặp anh.
         Do đấy tôi biết cách “đối phó” của anh với hoàn cảnh nghiệt ngã. Ra khỏi Phòng Văn Nghệ Quân đội, Quán xin chuyển đến Vụ Văn hóa Quần chúng của Bộ Văn hóa. Lúc đầu tôi không hiểu tại sao anh lại chọn cơ quan ấy, nhưng về sau thì tôi hiểu. Đấy là nơi anh có nhiều điều kiện tiếp cận cuộc sống, tìm hiểu các loại người... Về đấy, Quán nhận việc bồi dưỡng phong trào và nhiệm vụ của anh là mở các lớp “dạy viết văn, làm thơ” cho những người trình độ văn hóa thấp và có mong muốn “sáng tác”. Hóa ra công việc ấy rất thích hợp với Phùng Quán : con người luôn tìm được tiếng nói chung với mọi tầng lớp người xung quanh. Anh có tấm lòng rộng mở, nhanh chóng thấu hiểu được tâm tư mọi người và thấy trong ấy những nét đáng quý.
        Thỉnh thoàng gặp nhau, anh kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện lý thú anh phát hiện được trong cuộc sống “lang bạt” ấy. Lang bạt vì anh được cử đến đủ các địa phương, mở lớp đào tạo, nâng cao trình độ văn chương, thơ phú... hoặc để nói chuyện về văn chương. Công việc này anh thực hiện một cách hào hứng, và các “học viên” hay “thính giả” đều rất mến anh. Tình trạng này dẫn đến chỗ nhiều nữ học viên (phần lớn là nông dân hoặc công nhân nhà máy) từ phục thầy đến... yêu thầy. Tính Quán lại “đào hoa” nên nhiều trường hợp “không nỡ” chối từ. Chị vợ anh có lần than phiền với tôi về cái tính mà chị gọi là “lăng nhăng” ấy, rồi chị cười nói thêm : “Anh Quán bảo nếu không thế thì không ra thơ. Em đáp : “Ra thơ thì được, nhưng ra cái khác thì không được đâu đấy !
          Một lần, đọc thấy trong những bài viết của anh một sự việc lý thú, tôi đã ngỏ ý xin anh cho mở rộng, tạo nhân vật và viết thành một kịch bản. Quán không những đồng ý mà còn khuyến khích. Và thế là kịch bản “Hoa chanh nở trái mùa” được tôi hoàn thành. Tiếc rằng khi tôi đưa anh đọc, anh nói “Kịch cậu viết rất hay nhưng đấy không phải như mình hình dung. Mình thích những tấm gương can trường, vượt khó kiểu như Robinson, chứ mình không thích thú với những con người tâm lý phức tạp, dằng co..,” Kết quả, nhiều đoàn sân khấu lấy về đọc, rất thích kịch bản ấy và nhận dàn dựng, lúc đầu tôi vui vẻ (tất nhiên là vui rồi) đồng ý, nhưng về nhà nghĩ lại, tôi chợt nhớ đến câu nhận xét của Phùng Quán nên cuối cùng quyết định đến Đoàn khước từ và đem kịch bản về cất trong tủ. Sau này Nhà Xuất bản Văn học in tập “Kịch lịch sử và Kịch dân gian” của tôi, trong có kịch bản này, nhiều bạn đọc xong, hỏi tôi : “Kịch hay thế, sao ông không cho dựng ?”

NGUYỄN HỮU ĐANG

          Ông Đang là người tôi kính trọng nhất, và do quen biết từ lâu, tôi có rất nhiều điều muốn nói về ông, sẽ xin kể trong một bài riêng.
                                                                                                                          VŨ ĐÌNH PHÒNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét