Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

VỀ CHUYỆN "TÂM LINH"




NÓI LẠI...VỀ CHUYỆN TÂM LINH

            Hôm trước (9/4/2014) tôi chuyển tiếp lên trang facebook của tôi bài NGOẠI CẢM LÀ NGỤY KHOA HỌC (Phỏng vấn Đỗ Kiên Cường) và nói là tôi rất tâm đắc bài này thì ngay hôm sau tôi nhận được bình luận của bạn VŨ KIM nguyên văn như sau : “Tay Cường này tư duy duy vật máy móc, không hiểu gì về tâm linh, ngoại cảm. Nó chưa chứng kiến nên nó không biết rằng áp vong và ngoại cảm đem lại những thông tin kỳ diệu, những điều không thể bác bỏ được.”. Tôi thấy cần nói thêm về đề tài “cực kỳ tế nhị” này đôi lời, hoàn toàn không để tranh luận mà chỉ gợi thêm vài điều mắt tôi thấy và tai tôi nghe... 
          Chuyện thì nhiều, chỉ xin kể vài chuyện và chia những chuyện này ra hai loại : BÁC BỎ và ỦNG HỘ

                                       1. BÁC BỎ :

1)           Câu chuyện thứ nhất. Khoảng năm 1988, khi tôi cùng gia đình sống ở Nhà A1- Khu Lắp ghép Trung Tự , một hôm anh Văn Vượng (nổi tiếng với vai người nhạc sĩ mù trong phim “Hà Nội Trong Mắt Ai” của Trần Văn Thủy) đến nhà tôi, năn nỉ tôi “giải thich” cho anh một chuyện “rất lạ”. Vượng nói thêm đại ý : “Anh là người  hiểu biết rộng và em biết anh cũng thích khám phá mọi thứ. Anh phải đi với em và cho ý kiến...” Rồi anh Vượng kể là có cậu học trò âm nhạc, đang học violon, và gần đây cậu ta gặp một chuyện rất lạ. Nhà cậu ta có một phòng, nghe nói trước kia đã có cô gái thắt cổ chết trong ấy. Gần đây cậu ta thấy có hiện tượng lạ, là lúc ở chỗ khác thì lên dây đàn rất chính xác, nhưng hễ vào phòng ấy kéo đàn thì lại dây lại “phô” (nghĩa là âm không còn chính xác). Thế nghĩa là sao ?” Tôi từ chối, nói là những trường hợp “lạ” như thế tôi từng nghe đồn rất nhiều và đã đến tận nơi kiểm tra, thì thấy đều là tưởng tượng... Nhưng Vượng cố năn nỉ. “Nhưng lần này em cầu van anh. Nhà cậu ta cũng gần nhà anh, ngay ở Hàng Bột.” Nể quá tôi đành thay quần áo, đi cùng Vượng. Đến Hàng Bột, rẽ vào một ngõ, đến nhà, Vượng gõ cửa, thì một người đàn ông ra mở, thấy tôi, chào : “Ôi, thầy Phòng ! Mời thầy vào chơi”. Tôi nhận ra anh ta từng là học viên một lớp về nghệ thuật biểu diễn sân khấu tôi có đến giảng mấy lần. Vào đến nhà, tôi kể chuyện Vượng nói và ngỏ ý muốn gặp “đương sự”. Chủ nhà cho biết, đấy là con trai ông ta và tỏ ý rất tiếc là “cháu hiện không có nhà, nếu thầy và chú Vượng có thể ngồi chơi chờ được thì tốt, vì em đoán cháu không đi đâu lâu”. Tôi ngồi trò chuyện với chủ nhà và chờ. Quả nhiên lát sau cậu bé (trạc 16-17 tuổi) về. Vượng trình bầy và bảo cậu bé thử. Cậu ta lấy đàn, lên dây rồi vừa kéo vừa bước vào cái căn phòng “ma” kia, Lát sau, cậu ta nói : “Lạ thật, sao hôm nay cháu thấy dây cháu lên thế nào vẫn thế, không phô đi tí nào... Ông và thầy Vượng đành hôm khác đến đây vậy. Hôm nay “không ứng”. Cháu không hiểu tại sao ...”
2)           Câu chuyện thứ hai. Vào thập niên 1990, số trinh sát viên Đại doàn 308 chúng tôi đều đặn tụ họp theo tổ chức “Ban Liên lạc Cựu chiến binh Trinh sát Sư đoàn 308”. Một lần tôi thấy có thêm một phụ nữ đứng tuổi và được giới thiệu là con gái anh Sừ, cũng là trinh sát viên trong Đội Trinh sát 308 chúng tôi nhưng đã hy sinh đầu năm 1954, trong trận đánh ngăn chặn quân tiếp viện Pháp từ Lào sang tăng cường cho cứ điểm Điện Biên Phủ. Chị ta (tôi quên mất tên) nói : “Bố cháu xưa cùng chiến đấu trong một đơn vị với các bác, cháu là con gái, xin các bác coi cháu như con và cháu cũng xin được gọi các bác là bố. Bố con hy sinh năm 1954 và con biết có mấy bố ở đây đã chôn cất bố con. Đã nhiều đêm bố con hiện về, khóc lóc van nài con đưa hài cốt bố con về mai táng ở quê, chứ ở trên ấy toàn rừng núi hoang vu buồn lắm... Trước thì chỉ thỉnh thoảng, nhưng gần đây thì đêm nào bố con cũng hiện về. Con đã thuê thầy cúng lễ, tốn rất nhiều tiền nhưng bố con vẫn cứ hiện về khóc lóc năn nỉ... khiến con không đành lòng, đành lên van lạy các bố giúp con tìm hài cốt bố con để đưa về nghĩa trang liệt sĩ ở quê...” Trong số trinh sát viên hôm ấy trực tiếp chôn anh Sừ, hiện còn sống có anh Nguyễn Hữu Đễ, hiện là Trung tá về hưu cùng “tổ tam tam” với tôi và anh Nguyễn Văn Quỳ (Đại tá Nghỉ hưu)... Do biết như thế, nên chị con gái anh Sừ cứ bám chặt và van lạy ba chúng tôi. Cả ba chúng tôi thoái thác, viện lý do già yếu... Từ đấy lần họp Cựu trinh sát 308 nào, chị ta cũng đến và lại tiếp tục năn nỉ, thậm chí khóc lóc van lạy : “Mấy bố thương con...” Do anh em tuổi cao cứ “đi” dần nên ban liên lạc cũng thưa dần các cuộc họp. Đầu thập niên 2000, một hôm nhân có việc lên Vĩnh Yên, tôi ghé thăm anh Đễ, người đồng đội thân nhất của tôi ở Đội Trinh sát 308. Hàn huyên một lát, anh Đễ nói : “Ông có nhớ cái chị con gái cậu Sừ không ?” Rồi anh kể một câu chuyện mà anh nói là chỉ kể cho riêng tôi vì anh đã hứa với hai mẹ con chị ta là không kể ra với ai.  Chuyện anh Đễ kể “riêng cho tôi, bạn thân nhất khi phục vụ trong quân đội” tóm tắt như sau. Chị con gái anh Sừ mấy lần lên van lạy anh Đễ giúp. Cuối cùng nể quá, biết không thể thoái thác, anh buộc phải giúp. Chị ta thu xếp chuyến đi hết sức chu đáo, lều bạt để đêm nằm nghỉ, ba bữa ăn rất thịnh soạn, cả xe ô-tô đưa đi và đặc biệt chị ta mời một nhà “ngoại cảm” (lúc ấy nổi tiếng, nhưng lâu rồi, tôi đã quên tên) cùng đi để tìm giúp, và chị ta cung phụng ông ta cực kỳ hậu hĩnh... Địa điểm thuộc đất Lào nên phải xin giấy tờ khá phức tạp, nhưng rồi chị ta tháo vát và khéo chạy nên qua được hết. Nơi ấy, sau nửa thế kỷ (1954-2002) cảnh vật thay đổi quá nhiều. Dòng suối cũ chúng tôi chôn thi hài cậu Sừ bên bờ nay không còn chảy theo dòng như xưa. Anh Đễ phải dò rất lâu mới tìm ra dòng cũ. Chưa kể rừng núi ngày ấy hoang vu là thế, nay đã lác đác có người làm nhà để ở... Sau khi tìm và thử đào mấy ngày không kết quả, một buổi tối đứa con trai chị ta (tức cháu ngoại anh Sừ) đến lều anh Đễ nói, đại ý “Thầy cho biết không hy vọng tìm thấy hài cốt của ông cháu, nên thầy ngỏ ý, để mẹ cháu đỡ dằn vặt, đành phải đánh tráo bằng một “bộ” (ý nói bộ hì cốt) khác.” Anh Đễ hỏi “bộ” lấy ở đâu thì cháu trả lời : “Thầy đã mang sẵn trong xắc. Thầy bảo chuyện này chỉ nói riêng với cháu, nhưng cháu nghĩ cần hỏi ý kiến ông. Cháu biết đấy là chuyện dối trá nhưng mục đích chỉ là để giải quyết tư tưởng cho mẹ cháu, kẻo hôm nào mẹ cháu cũng bào “đêm qua ông ngoại hiện về, khóc và thúc mẹ cháu đem hài cốt ông về nghĩa trang làng ta. Lần nào thức dậy mẹ cháu cũng khóc như mưa như gió...” Anh Đễ đã trả lời : “Ông hiểu, nhưng đụng đến linh hồn người đã khuất là thứ linh thiêng thì ông không thể bằng lòng kiểu dối trá như thế. Còn nếu cháu thấy cần thiết thì cháu cứ tự quyết định. Ông không cản và cũng sẽ không lộ ra với ai.” Kể xong, anh Đễ cho tôi biết sau đấy anh cũng không rõ đứa cháu kia xử sự cách nào, và anh có linh cảm là cháu đã nghe theo lời khuyên của ông thầy để mẹ cháu được thanh thản...Câu chuyện là như thế, tuy ông Đễ chỉ kể riêng cho một mình tôi vì là bạn chí thiết khi ở quân đội, nhưng nếu bạn nào muốn xác minh có thể liên lạc trực tiếp với anh Đễ theo số điện thoại (0211)3843154 hoặc đến gặp trực tiếp. Gia đình anh Nguyễn Hữu Đễ cho đến gần đây (2010) vẫn ở trên đỉnh quả đồi của Thành phố Vĩnh Yên (có thể hỏi Cụ Nguyễn Hữu Đễ, sinh năm 1930, hiện (hoặc đã có thời gian) làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thị Xã Vĩnh Yên (nay đã lên thành phố), con dâu anh hồi ấy là bác sĩ dinh dưỡng, làm việc ở Sở Y tế thành phố. Đấy là địa chỉ và số điện thoại cũ (trước năm 2012), vì vài ba năm trở lại đây, tôi không dịp nào liên lạc với anh. Anh Đễ sống ở Vĩnh Yên đã nhiều năm nên hầu như hỏi “Cụ Đễ” tôi tin là nhiều người biết. Nếu cần thêm nữa, có thể qua anh Nguyễn Văn Quỳ (đại tá nghỉ hưu) ở ngay Hà Nội (số điện thoại 38646337) hoặc qua một trong số “cựu trinh sát viên 308 thời kỳ 1949-1954”).
3)           Chuyện thứ ba. Xung quanh chuyện “tâm linh” này, tôi có thể kể thêm rất nhiều. Tuy nhiên tôi thấy phải kể một chuyện để tạm kết thúc. Khoảng năm 1980, tôi mổ dạ dày xong, sức khỏe rất yếu, bác sĩ khuyên nên chịu khó bồi dưỡng và có thể thì uống them bia. Nhân gần nhà tôi (ở Trung Tự) lại có quầy bia Chùa Bộc nổi tiếng lúc ấy, tôi bèn chiều chiều ra đấy uống một “vại” rồi lững thững về nhà ăn cơm chiều. Tính tôi không thích la cà nên tôi chọn một bàn trống ở một góc khuất. Mấy hôm sau, một ông cũng trạc tuổi tôi đến xin ngồi cùng. Hai chúng tôi cùng ngồi uống nhưng hầu như không ai nói gì. Một hôm, nghe thấy phía bên ngoài rất đông khách đang sôi nổi truyền nhau chuyện tìm mộ, thầy này giỏi, tìm không bao giờ sai. Họ tranh luận ầm ĩ. Đột nhiên ông bạn ngồi cùng bàn hỏi tôi : “Anh có tin không ?” Tôi đáp hờ hững : “Tôi không biết có nên tin hay không.” Ông bạn bèn nói luôn : “Nhân đây tôi xin kể với anh. Tôi từng là bộ đội hồi chống Pháp, sau Genève chuyển ngành sang Bộ Ngoại giao và từng làm Đại biện, rồi Tùy viên Văn hóa ở trên một chục nước. Thuở nhỏ tôi rất băn khoăn chuyện thiêng với chẳng thiêng và do bản tính tinh nghịch, rất nhiều lần tôi đã thử ban đêm ra chỗ mộ mới chôn, hoặc đền miếu nghe đồn rất thiêng, “bậy” ra đấy xem thử có bị “phạt” gì không, thì thấy không sao cả. Sau đấy tôi nhiều lần thử, cả khi phục vụ trong quân đội, trải qua nhiều chiến trận, chôn nhiều đồng đôi, tôi cứ chờ xem có thấy “hiện tượng nào “lạ” không, thấy không có gì cả. Nhất là trận Lọc Nước, chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Đường Số 18), không biết anh có tham gia khộng, quân ta chết rất nhiều, hàng chục xác lủng lẳng trên dây thép gai, không cả kịp chôn. Sau đấy có dịp đi qua, tôi hy vọng thấy hiện tượng gì lạ, nhưng không hề thấy gì ngoài mùi thịt thối nồng nặc. Ngay cả khi công tác ở nước ngoài, dân họ cũng có nhiều người mê tín như ở ta, nhất là mấy bà, hễ thấy đồn có hiện tượng “lạ” tôi đều tò mò, cất công đến xem, nhưng chẳng lần nào thấy gì hết. Gần đây tôi quyết định không mất thời giờ, công sức vào những trò tìm kiếm ấy nữa và kết luận “toàn chuyện tưởng tượng”. Hai chúng tôi bàn nhau, tán thành nhận định của nhau. Một lúc, do không chú ý tôi nói hơi to, ông bạn nhắc : “Khẽ chứ. Đám ngồi ngoài kia nghe thấy họ dám đánh mình chết đấy. Nghề đời người “tin” rất ghét “người không tin ! Giống như trong bàn nhậu, người say rất ghét những thằng nào không say ấy.” Cuộc trò chuyện hôm ấy tôi cứ nhớ mãi, rất tiếc không hỏi ông bạn “ngẫu nhiên” ấy tên là gì để tiếp tục liên lạc. Nhưng nghĩ cũng chẳng để làm gì...
4)           Tạm kết luận. Đến nay thì tôi đã có kinh nghiệm. Chuyện “tin” và “không tin” là bình thường. Nhưng khi tranh cãi đến đề tài ấy dễ sửng cồ lên với nhau. Thậm chí với những người thân thiết và tưởng chừng hiểu nhau và tôn trọng nhau. Thí dụ tôi với ông thông gia (cũng từng là quân nhân, thậm chí là trí thức -Đại tá, bác sĩ quân y) chỉ do đụng đến “vấn đề tế nhị” ấy, mà một lần đã to tiếng với nhau, may con trai cả của ông ấy có mặt ở đấy dàn hòa cho hai chúng tôi. Và hai chúng tôi cười xòa, chuyển sang đề tài khác để tiếp tục trò chuyện !
*
                                  ỦNG HỘ :

Xin nhắc lại, tôi nêu vấn đề ra không phải để tranh luận, chỉ là để các bạn tham khảo và suy nghĩ thêm. Tuy nhiên cũng cần phải nói, tôi chứng kiến nhiều trường hợp cái gọi là sự “tin” ấy đã “giúp ích” được nhiều người. Xin tạm đưa ra mấy thí dụ :

Chuyện thứ nhất

Quê tôi có một bà, mấy lần giở dạ, đứa bé sinh ra đều bị ngạt và không nuôi được. Sau lúc ấy bà kể lại là đúng lúc bà dặn đẻ thì có một người đàn bà bé xíu, nón thúng quai thao đứng ở cửa, chìa hai tay ra đón, thế là đứa bé bị ngạt và chết. Người đàn bà nón thúng quai thao ấy bồng đứa bé chạy biến đâu mất tăm… Dân quê tôi gọi đấy chính là “Mẹ Ranh Càn Sát”… Bà ta có mang mấy lần, nhưng cuối cùng vẫn chưa được đứa con nào. Tất cả đều bị “mẹ Ranh Càn Sát” ẵm đi mất… Năm ấy, ông em bà đi lính ở Pháp về (Thế chiến I), thấy thế bèn nghĩ ra một cách. Bà chị lại có thai, và lúc sắp giở dạ, ông đem cả đống roi dâu (nghe đồn là ma rất sợ cành dâu) đã chuẩn bị trước, dựng khắp bốn bức tường xung quanh giường bà chị, rồi dán các thứ bùa cả trên hai cánh cửa lẫn đồ đạc trong nhà, chờ. Đúng lúc bà chị hoảng hốt hét lên : “Nó kia kìa ! Mẹ Ranh Càn sát ấy !” thì ông em cầm luôn một bó roi dâu chạy ra cửa, theo hướng trỏ của bà chị, rồi miệng quát, tay quật tứ tung, vọt ra khỏi nhà, lát sau quay vào, đem theo một cái giẻ đang cháy, khói nghi ngút : “Em bắt được con ma rồi ! Nó đây này !” Bà chị bỗng thở phảo nhẹ nhõm và đứa bé được sinh ra trót lọt...
Chuyện thứ hai
Hồi ấy tôi đạo diễn kịch bản “Nơi cuộc đời ẩn náu” của nhà văn xô-viết Victor ROZOV cho Đoàn Kịch nói Hà Nội. Kịch được ông viết ra vào thập niên 1970, lúc xã hội Liên Xô đang rối bời, mọi mặt sa sút đến thảm hại, và phong trào mê tín dị đoan phát triển như nấm sau mùa mưa. Kịch miêu tả những chuyện “chỉ trong nhà biết với nhau” của gia đình một quan chức cấp cao. Ông bố từng là Đại sứ Liên Xô ở nhiều nước, và say mê sưu tầm đồ cổ, đặc biệt là đồ cổ các dân tộc châu Phi. Cô con gái đã có chồng nhưng bị chồng ngoại tình, rất đau khổ. Một hôm ông bố vào phòng bầy các đồ cổ thu thập được, bắt gặp con gái đang xì xụp khấn trước một pho ngẫu tượng châu Phi. Ông quát : “Con một cấp ủy Đảng mà mê tín thế à ?” Cô con gái nói : “Con có nhiều nỗi đau khổ, không biết thổ lộ cùng ai. Bố thì mải tiếp các đoàn khách nước ngoài, mẹ thì mải trang điểm làm đẹp… Con thấy chỉ có ở đây, con mới có thể thổ lộ nỗi lòng đau khổ được. Con không biết cái ông thần kia là ai và quyền phép đến đâu. Nhưng con cần một ai đấy để thổ lộ cho nhẹ bớt nỗi lòng…” Qua đoạn kịch này, tôi thấy rõ nhu cầu tạm gọi là “tâm linh” của những người cảm thấy mình bất hạnh.
Ngay nhà văn Mỹ Sheldon, người được tặng giải tác giả Mỹ được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài nhất, trong tác phẩm cuối cùng, mang tính gần như hồi ký, có kể chuyện là sau khi vợ ông bị mất đứa con, cả hai vợ chồng đau đớn tột cùng, cuối cùng ông tìm thấy sự giải tỏa khi sử dụng những đĩa ghi bài giảng giáo lý của giáo phải X. đang rất có uy tín ở Mỹ… Khi đọc và dịch cuốn “Phía bên kia của Tôi” ấy, lúc đầu tôi rất ngạc nhiên vì đấy là một giáo phái bị nhiều người vạch ra là “bịp bơm” ! Nhưng tác giả Sheldon thì lại nói, những bài thuyết giáo của giáo phái ấy đã làm hai vợ chồng ông dịu đi nỗi đau…
Gần ngay bên cạnh tôi là ông em rể. Sau khi em gái tôi mất, cậu ta rất đau khổ và đâm thành “mê tín” ! Là một cử nhân tốt nghiệp Đại học Tổng hợp và làm giáo viên cấp Ba mà bây giờ mời đồng cốt, đi áp vong…đủ thứ… rồi kể tôi nghe rất nhiều chuyện tôi không thể tin. Nhưng tôi không phản đối mà hiểu, cậu ta quá yêu em gái tôi và khi vợ mất, cậu ta chỉ còn cách dùng “tâm linh” để nhẹ bớt nỗi đau khổ, thương nhớ…
Và xin kể một câu chuyện tạm coi là cuối cùng. Hồi mẹ tôi còn sống, một hôm mẹ tôi bảo vợ tôi, một cán bộ y tế trung cấp, đến chùa Quan Hoa (bên Hồ Thiền Quang) tiêm thuốc cho “bà sư”. Bà là người làng tôi, xưa lấy chồng là một ông Thông Phán, nhưng ông này chơi bời quá, bà chán đời bèn trốn nhà đi tu. Chuyện cách đây mấy chục năm và nay bà đã lên đến chức “Sư Cụ”. Bà rất hiền và rất mộ đạo Phật… Bà là một minh chứng cho tác dụng an ủi của tôn giáo, nhất là đạo Phật…
Ngay nhà văn Nga Anton TCHEKHOV, trong lời khuyên các nhà văn trẻ cũng có nói “Điều quan trọng nhất là phải lao động và có niềm tin” (труд и вера)… Theo tôi hiểu “niềm tin ở đây có nghĩa tin Chúa !
Cho nên thiết nghĩ, nhu cầu “tin” cũng hết sức quan trọng. Hiện nay nhiều người đi Chùa, khấn trước tượng Phật chỉ để chửi cho bõ tức (cũng là một thứ tác dụng tâm linh) những tên quan chức đểu cáng, làm hại chồng con họ. Nếu không “trút nỗi uất giận” trước Phật thì trút đi đâu ? Cho nhẹ bớt nỗi lòng căm giận ?

                                                                                                 11-2014. V.Đ.PHÒNG



THAM KHẢO THÊM :



NGUỒN GỐC CỦA MÊ TÍN
          Nhân đọc bài “Ai ăn lộc thánh” của Phan Tất Đức (thạc sĩ ngành quản lý) đăng trên VN Express ngày Chủ Nhật 1-3-2015, tôi muốn thổ lộ những suy nghĩ riêng tư của tôi về nguyên nhân “hiện tượng” mê tín. Bởi theo tôi nghĩ, đấy là một hiện tượng.
         Cũng như rất nhiều bạn khác, tôi sinh ra trong một môi trường đầy mê tín và ngay từ nhỏ đã thấy vô số những trò vô lý, tức cười… rất “trẻ con” ấy, xung quanh chuyện mê tín.
         Một số người đánh đồng giữa “mê tín” và “tín ngưỡng” và gọi chung hai thứ ấy là “nhu cầu tâm linh”, một khái niệm đối với tôi, cho đến hôm nay, mặc dù đã ngoài 80 tuổi và suốt đời chịu khó đọc sách rồi suy ngẫm, vẫn chưa hiểu nổi.
         Thế nào là “tâm linh” ? Một tạp chí Pháp có tên là ESPRIT chuyên nói về những hiện tượng “siêu nhiên”. Và phải chăng “mê tín” và “tín ngưỡng” dịch sang ngôn ngữ Pháp là những thứ liên quan đến “esprit” hay “spirituel” ? Con người, đại đa số đều có một số điều “mê tín”. Không chỉ các dân tộc Phương Đông chúng ta mà cả các dân tộc Phương Tây cũng có nhiều thứ “mê tín” , thí dụ họ rất kiêng con số 13 ! Nhiều tòa nhà cao tầng hiện đại, bỏ qua tầng thứ 13, và nhiều chung cư cũng như khách sạn khi đánh số căn hộ hoặc phòng, cũng nhẩy qua con số “sui sẻo” ấy vì sợ nhiều người coi đấy là con số “nguy hiểm”.
                                                                             *
         Thế rồi đến một hôm, đọc cuốn LỊCH SỬ VĂN MINH TRUNG HOA của nhà nghiên cứu lịch sử, triết học… nổi tiếng thế giới DURANT, có đoạn ông này giải thích hiện tượng dân Trung oa biến triaaets gia HHHHoa biến triết gia vĩ đại Lão Tử thành một vị Thánh rồi thờ cúng, tổ chức lễ hội, tôn vinh ông, thậm chí biến ông thành Thái thượng Lão Quân để cúng bái… Để trích dẫn nguyên văn lời giải thích của Durant, tôi bèn lục lọi và may thay đã thấy. Xin trích nguyên văn đoạn ấy như sau (theo bản dịch của NGUYỄN HiẾN LÊ).
«Tôn giáo đơn sơ và gần như duy lý ấy (Đạo Khổng) không làm cho đại chúng thỏa mãn. Vì rất ít phần tượng trưng, không đáp ứng được những hy vọng, mơ mộng của con người, không chấp nhận sự tin dị đoan mà chính những dị đoan làm cho đời sống hàng ngày cuồng nhiệt hơn. Vì ở Trung Hoa cũng như ở các nước khác, dân chúng thích dùng cái nên thơ của sự linh dị mà tô điểm thêm cho đời sống bình phàm bằng một thế giới quỉ thần, thiện hay ác, lởn vởn xung quanh họ, và họ muốn dùng những câu thần chú hoặc những lời cầu khẩn để các quỷ thần ấy không hại được họ, hoặc phù hộ cho họ nữa. Họ nhờ thầy bói dùng mai rùa hay cỏ thi đoán tương lai cho họ theo Kinh Dịch ; họ muốn những nhà phong thủy để mả hoặc để hướng nhà cho ; họ thuê bọn phù thủy cầu mưa hay nắng cho… Đặc biệt là người Hoa Nam có óc thần bí, không ưa tính cách lạnh lùng, duy lý của Khổng Giáo và muốn có một tôn giáo tặng họ niềm an ủi là được hưởng đời sống vĩnh cửu. Cho nên vài nhà thần học bình dân mượn ngay những học thuyết hơi mơ hồ của Lão Tử rồi lần lần tạo nên một tôn giáo. Lão Tử và Trang Tử cho đạo là một quy tắc sống, một phương tiện để cho thế giới được thái bình, chứ không bao giờ coi nó là một đấng thần linh, lại càng không cho rằng nhờ theo nó mà xuống hố rồi vẫn còn được sống trên một cõi nào khác. Nhưng tới thế kỷ II, có một số người bảo được Lão Tử truyền cho một thứ thuốc bất tử, và sửa đổi (đề ra một cách lý giải sai lệch) học thuyết của Lão Tử. Thứ thuốc ấy được nhiều người ham lắm và tương truyền nhiều ông Vua lạm dụng mà chết. Khoảng năm 148 sau T.L., một thầy tu thần bí bán một thứ bùa rất giản dị mà trị được bách bệnh lấy năm hộc lúa. Có thể rằng thứ bùa đó trị được bệnh cho vài người, còn những kẻ không hết bệnh thì ông ta đổ tại thiếu đức tin, nên bùa không công hiệu. Thế là thiên hạ ùn ùn theo tôn giáo mới, dựng đền, quyên rất nhiều tiền tặng các thầy tu [hay thầy phù thủy ?] đó, đem lòng tin dị đoan của họ ra thờ tôn giáo mới.  Lão Tử thành một vị thần (Thái Thượng Lão Quân), bảo ông ở trong bụng mẹ tám mươi năm mới ra đời, cho nên mớí sinh ra, ông đã già, tóc đã bạc, minh triết ngay rồi. Trong một ngàn năm, Đạo Giáo thu hút được hàng triệu tín đồ, thuyết phục được nhiều ông vua và kiên nhẫn dành ảnh hưởng với Khổng Giáo, ngăn cản triều đình thu thuế để tiêu vào việc nước. Sau nó phải thua, không phải vì đạo Khổng hợp lí, mà vì một tôn giáo mới mạnh hơn, an ủi được hạng bình dân hơn, tức đạo Phật… »
                Phải chăng đoạn trích trên có nghĩa DURANT cho rằng nguồn gốc của “mê tín” là nhu cầu vui chơi ? Mà hình như nhu cầu ấy ở nữ giới mạnh hơn ở nam giới, nhất là lớp trẻ, tràn trề sức sống và dễ “a dua”. Tôi tạm gọi là “nhu cầu thích đàn đúm”. 
               Nhân đây tôi lại nhớ một trường hợp xảy ra với tôi. Vào khoảng năm 1948, hôm ấy tôi có việc phải đến Ủy Ban Huyện Đông Triều. Lúc đang đạp xe trên đường số 18, tôi gặp một đám con gái trẻ… Nhìn thấy tôi, một cô trêu : “Anh bộ đội ơi, có thích ôm con gái không thì xuống xe đi, ôm em ấy ! Em cho đấy !” Thấy trò chơi có vẻ vui, một cô khác hét lên : “Em yêu anh lắm, anh bộ đội đẹp trai ơi. Xuống xe đi, rồi ôm em nào !” Thấy trò thú vị, cả đám, chừng gần hai chục cô gái trẻ 15- 20 tuổi cười ầm lên rồi nhao nhao, tranh nhau hét : “Yêu em nào, em xinh hơn nó. Nào, anh bộ đội, xuống đây, ta ôm nhau, vú em to lắm… Em cho anh tha hồ bóp đấy” Rồi cả đám nhao nhao, vừa cười rộ vừa la hét, mỗi lúc một táo tơn, thậm chí tục tĩu hơn… Tôi hết hồn, vội phóng xe đạp thật nhanh, có cô còn níu xe, khiến tôi phải gỡ mạnh hoặc lao xe nhanh hơn… Lúc đến Đông Triều, tôi vào nhà ông Chủ tịch. Đang uống nước thì thấy tiếng chào : “Cháu chào chú ạ !” Tôi nhin ra, thấy một cô gái, chính là trong đám trêu tôi lúc trước. Ông Chủ tịch giới thiệu : “Cháu chào chú đấy !” Cô gái nhận ra tôi, mặt đột nhiên đỏ nhừ, xấu hổ cúi đầu chạy nhanh vào nhà trong…
           Cũng cần nói thêm, là hiện tượng đùa giỡn ấy còn có sức lây lan rất nhanh, và biến thành một thứ “triệu chứng bệnh lý” y học gọi là “hysteria” ! Nhưng đấy là chuyện khác. Nhưng nhu cầu “tâm linh” ấy phải chăng là một thứ “giải trí” hoặc “giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống” ? Và con người ta có nhu cầu “tin” vào một sức mạnh siêu nhiên” nào đấy. Bởi có nhiều lúc con người ta thấy bất lực, cần cầu cứu một sức mạnh siêu nhiên nào đấy. 
           Tôi lại nhớ một chuyện khác. Hồi tôi dịch rồi đạo diễn cho Đoàn Kịch Hà Nội vào khoảng thập niên 1990 kich bản xô-viết “Nơi cuộc đời ẩn náu”, có một đoạn như sau. Nhân vật chính là một cô gái trẻ. Cô có chồng nhưng vẫn sống cùng cha mẹ. Cha cô là một cán bộ ngoại giao, từng làm đại sứ ở nhiều nước, và ông đem về nhiều thứ của nước ngoài mà ông bầy trong một phòng, gần như một viện bảo tàng nhỏ : những mặt nạ châu Mý La tinh, tượng thần thánh dân gian châu Phi… Một hôm tình cờ ông bước vào và thấy con gái đang quỳ, chắp tay khấn vái trước một pho “ngẫn tượng” châu Phi. Ông nổi nóng : “Bố là đảng viên Cộng Sản mà con lại mê tín thế à ?” Cô gái, lúc ấy biết chồng ngoại tình với một bạn gái của cô, đang trong tâm trạng đau khổ, bèn đáp : “Thế bây giờ con muốn than thở thì than thở với ai ? Bố thì suốt ngày đi vắng. mẹ thì suốt ngày đánh bài với bè bạn… Con chỉ có một cách là thổ lộ nỗi lòng để vơi bớt nỗi đau khổ với pho tượng này thôi, chứ con có cần biết ông ta là ông thần hay ông thánh nào đâu ?
             Nhìn vào hiện tượng dân kéo đến các đền Bà Chúa Kho, Thánh Gióng… thì chúng ta thấy họ có hai nhu cầu : một là vui chơi và hai là thổ lộ mong ước thầm kín (thí dụ mong thần thánh vật chết cái “lão” thủ trưởng khốn nạn, chuyên ép nhân viên nữ phải ngủ với hắn…) chẳng hạn…
            Ấy đấy, nguồn gốc của mê tín phải chăng là ở đấy… và nếu như thế thì đúng là “nhu cầu” không phải tâm linh mà nhu cầu tinh thần, con người ta đang cần một niềm an ủi, một nơi thổ lộ những mong ước thầm kín… mà họ không thể nói ra công khai ?

Thứ Tư, 25 tháng 2, 2015

KỶ NIÊM VỀ TÔ HOÀI



KỶ NIỆM VỀ “TÔ HOÀI”
I
            Nhà văn Tô Hoài mất đã vài năm. Tuy không cố ý theo dõi dư luận về ông, nhưng rồi tình cờ  tôi cũng đọc được một số bài và cảm thấy hình như chưa ai nói trúng thực chất (hay bản chất) của ông. Tôi có cảm giác chủ quan là tương đối hiểu về ông nên thấy cần phát biểu đôi điều, lúc đầu chỉ định “đính chính” một vài nhận định về ông. Tuy nhiên cầm bút lên tôi lại ngập ngừng, bởi tôi đã đến cái tuổi ngờ vực cả những điều thuở trẻ tôi đinh ninh là đúng. Nhưng rồi những kỷ niệm cứ ùn ùn hiện ra trong ký ức, khiến tôi quyết định đặt bút...
            Tôi biết tên tuổi ông từ khi đọc “DẾ MÈN…” in trong tủ sách “TRUYỀN BÁ” của Nhà Tân Dân, vào khoảng năm 1944 thì phải, lúc tôi còn đang một tay cắp cặp, một tay cầm lọ mực… đi học lớp Nhì Trường Tiểu học Đáp Cầu. Cha tôi thỉnh thoảng cũng có viết văn, nhưng Người viết hoàn toàn kiểu tài tử và ký tên khác, không có chút tham vọng nào “thành văn sĩ” ! Điều này về sau tôi mới được biết. (Ai quan tâm chuyện này có thể tham khảo bài “CHA TÔI” trong blog của tôi (VUDINHPHONGBLOG).
            DẾ MÈN…” chỉ là một truyện tôi đọc và hơi thích, chứ không nghĩ nó ghê gớm và giá trị gì lắm như vài bạn đánh giá. Khi bản dịch sang tiếng Nga của Tkachev hoàn thành và in ấn, thì cũng chỉ nhà xuất bản “Sách Thiếu nhi” của Liên Xô in và phát hành. Có nghĩa họ cũng chỉ coi nó là “truyện trẻ em”. Tất nhiên “truyện trẻ con” không có nghĩa ít giá trị, tuy nhiên lúc ấy đang học Đại học ở Liên Xô, tôi bèn mua và tặng một số bản cho các cháu nhỏ người Nga, tuổi 12-15, ở xung quanh Trường thì thấy công chúng độc giả nhỏ Liên Xô tiếp thu “DẾ MÈN” rất lạnh nhạt…
            II
            Sau khi Chiến tranh bùng nổ (12-1946), tôi nghe tin ông tản cư theo Tòa soạn báo Cứu Quốc lên Việt Bắc. Năm 1948, tôi có dịp đến cơ quan báo CỨU QUỐC. lúc ấy nằm trong A.T.K. (An toàn khu). Hình như thuộc địa phận tỉnh Bắc Cạn, tưởng sẽ gặp ông nhưng không gặp. Đến năm 1954, tôi chuyển ngành ra khỏi quân đội, về nhận công tác tại Bộ Văn Hóa, thế nào lại được phân về một bộ phận chuyên lo việc “quản lý xuất bản”.
            Đây là may mắn vượt lên trên mọi mong ước của tôi, vốn thích đọc sách, và thuộc loài “ăn tạp” có nghĩa cứ thấy sách là đọc, hợp “gu” thì đọc đến hết, hợp nữa thì đọc lại, thậm chí đọc đi đọc lại nhiều lần. Còn thấy không hợp “gu” thì buông ngay, vớ cuốn khác. (Gia đình tôi có rất nhiều sách và bằng ba  thứ tiếng, Việt, Hán và Pháp. Ông tôi học “trường Tây” và cha tôi cũng thế. Cả hai đều thông thạo tiếng Pháp. Ông nội tôi trước khi ra Hà Nội học Quốc Ngữ và tiếng Pháp, đã học chữ Nho nên giỏi cả chữ Hán. Cha tôi thì tốt nghệp trường Sư Phạm (Ecole Normale) nên nói và viết tiếng Pháp thạo gần như tiếng Việt. Cả ông nội và cha tôi đều chịu khó mua sách và mấy tủ sách trong nhà chất đầy sách, thuộc đủ lĩnh vực kiến thức : lịch sử, địa lý, khảo cứu, văn chương… khoa học -chủ yếu là khoa học thường thức. Có thể nói tôi lớn lên giữa một đại dương mênh mông, toàn sách là sách, thuộc hâu như đủ mọi lĩnh vực kiến thức…)
            Về Hà Nội, công việc của mấy anh em chúng tôi trong Phòng Quản lý Xuất bản là nhận bản thảo của các ban biên tập đem đến (bấy giờ các nhà xuất bản chỉ có bộ phận biên tập, không làm công việc  kinh doanh). Chúng tôi tiến hành kiểm tra lại bản thảo, nếu thấy chỗ nào cần sửa thì liên hệ với Ban Biên Tập nơi ấy, và nếu cần, có thể gặp gỡ tác giả trao đổi trực tiếp. Khi bản thảo hoàn thành, chúng tôi cho đánh máy sạch sẽ, làm ma-két, chọn họa sĩ để đặt vẽ bìa và minh họa (nếu thấy cần thiết), rồi dựa theo công thức của Phòng Tài Vụ, căn cứ vào số trang, định giá bán lẻ để in vào cuối bìa 4, chuyển xuống nhà in. Thế là tròn nhiệm vụ. Việc phát hành ra toàn quốc là việc của Phòng Phát Hành…
            Tôi học được rất nhiều trong khối công việc “quản lý xuất bản” này vì nó gần với sách báo cùng các loại ấn phẩm khác, như tranh nghệ thuật hoặc tranh cổ động, rồi nhạc phẩm và đáng quý nhất là được tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ (không phải chỉ “văn sĩ” mà cả nhạc sĩ (vì có sách nhạc), họa sĩ (chúng tôi đặt vẽ bìa)... Trong số bản thảo qua tay tôi biên tập và đưa in trong ba năm ấy (1954-1956), có nhiều tác phẩm nổi tiếng : Người người lớp lớp của Trần Dần, Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, hai tập thơ Việt Bắc Ta đi tới của Tố Hữu, rồi cả Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên (chính cuốn này về sau, khi tôi học khoa đạo diễn Trường Đại học Sân khấu Moskva, đã gợi ý cho tôi “thử” viết thành một kịch bản, theo thể loại biên niên, lấy tên ban đầu là “KỂ CHUYỆN BÁC HỒ” về sau đổi tên thành NGƯỜI CÔNG DÂN SỐ MỘT…)
            Trong số bản thảo ấy có tập TRUYỆN TÂY BẮC của Tô Hoài. Chính đấy là dịp tôi được gặp lại và trò chuyện khá nhiều với ông.. Lần trước, cách đấy 10 năm, cũng ở Hà Nội, tôi đã biết mặt ông nhưng chỉ là “biết mặt” thế thôi. Hôm ấy tôi đi theo cha tôi đến Nhà TÂN DÂN, cha tôi đã chỉ ông ta cho tôi : “Ông Tô Hoài, tác giả Dế Mèn Phiêu lưu Ký kia kìa !”. Bây giờ tôi được tiếp xúc gần, thậm chí còn trò chuyện nên quan sát được kỹ hơn. Hôm ấy (năm 1945), ngay cảm giác đầu tiên tôi đã thấy ông là con người sống giản dị, thái độ hòa nhã, rất dễ mến. Tất nhiên ông không biết tôi, nhưng tôi biết ông có quen cha tôi, tuy không thân. Vả lại lần trước gặp ông, từ năm 1945, tôi chỉ nhìn ông thoáng qua, và tất nhiên ông chỉ chào cha tôi, không để ý gì đến đứa trẻ mười hai tuổi đi theo Người.
            Lần thứ hai này diễn ra do công việc, tôi đã trưởng thành và lại có từng trải ít nhiều, nên tôi có dịp được chuyện trò với ông khá cởi mở, xung quanh tác phẩm và cả xung quanh chuyện văn chương. Thấy tôi tỏ ý rất thích mấy truyện trong tập, nhất là MƯỜNG GIƠN, ông cười, nói đại ý : “Mình không ngờ lại tiếp tục nghề văn chương được đấy. Năm 1947-48 ra chiến khu, làm báo CỨU QUỐC, thấy ngòi bút cứ cứng lại, mình đã tưởng không viết được nữa, vì kiểu viết mới là phải dùng văn chính trị, mình không quen. Đang chán nản. đã tính bỏ nghề thì may quá, có ông bạn gợi ý thử lên miền núi, nơi có các dân tộc thiểu số… Mình thấy có vẻ “hay”, bèn xin chân phóng viên thường trú ở Tây-Bắc. Sau thời gian bỡ ngỡ ban đầu, mình trò chuyện với đồng bào Thái Mường, dần dần thấy nhập cuộc được vì trong cuộc sống nhọc nhằn của họ có nhiều cái rất khác miền xuôi. Mà tính mình thì thích những gì khác thường. Thế là mình quyết định viết ra giấy những chuyện khác lạ ấy. Cậu chắc biết, sở trường của mình chỉ là viết về những tính cách lạ, những éo le và những “mẩu đời” không bình thường, suôn sẻ, mà trên ấy thì vô thiên lủng, Bước lên bất cứ nhà sàn, hỏi chuyện bất cứ gia đình nào, cũng gặp những chuyện khác lạ. Họ yêu đương, lấy nhau, ghen tuông cũng khác dưới xuôi mình… Bắt tay vào viết, lúc đầu chỉ là những ghi chép, kể lại một mẩu đời, một số phận, một tình huống, dần dần mở rộng ra rồi chắp nối lại. Viết A PHỦ, mình đã thấy rất thích tay. Đến MƯỜNG GIƠN thì mình say sưa. Mừng quá : thế nghĩa là không phải bỏ bút…”
            Lúc ấy ông chưa biết tôi là con “Ông Giáo Vân”, nhưng chỉ qua một lúc trò chuyện tôi càm thấy ông rất giản dị, sống cởi mở nên dễ gần… và hình như ông đã bắt đầu thấy mến tôi, và tôi cũng mến ông, thấy ông nói chuyện chân thành, không “kênh kiệu” như một số cây bút khác. Và tôi bắt đầu cảm thấy trong tính tình ông hình như có nhiều nét gần với tôi.
            Sau này ông có mối quan hệ khá gần gụi, thân tình với tôi, điều mà tôi không thấy bất ngờ gì nhiều lắm…Tuy nhiên đôi khi tôi cũng tự hỏi : “Giữa ông và tôi có cái gì giống nhau mà ông quý tôi thế ?” Cuối cùng, sau nhiều lần tiếp xúc, tôi cảm thấy hình như tìm ra được câu trả lời : “Ông và tôi có cùng một kiểu thái độ đối với cuộc sống. Hình như thế…” Cho nên khi đọc những bài viết về ông sau này, tôi cứ có cảm giác chủ quan là người viết chỉ loanh quanh bên ngoài, chưa đi được vào “bản chất”, nghĩa là chưa đụng được vào cái mà tôi coi là “nét chính” của “con người” Tô Hoài, cái nét chính đã khiến ông thấy tôi gần với ông và tôi cũng thấy ông gần với tôi.  
            III
            Cái nét chính ấy là gì ? Tôi cho rằng, đấy là thái độ “độc lập”, cái ý thức về mình, và cố không để thứ gì tác động đến mức bắt mình “thôi không còn là mình” nữa. Thái độ ấy là bất kể hoàn cảnh nào cũng quyết giữ “là chính mình”. Và cảm giác nếu mình không còn là mình nữa thì cuộc sống không còn lý thú gì và mọi việc mình làm, kể cả viết lách, cũng trở thành khiên cưỡng và như thể bị cưỡng bức. Đôi khi áp lực bên ngoài mạnh quá, tàn bạo quá, thì đành chọn cách “nhịn”, “tránh đi” cho nó qua, vì hiểu rằng “cưỡng lại chỉ dại”, chứ nhất định không chịu thay đổi bản chất, không chịu “sống khác với mình”, cụ thể là những gì mình đã tâm niệm cùng những mong ước của mình về tương lai, hoặc quan niệm của mình thế nào là sướng, là khổ, mình “khỏe” về thứ văn chương nào và thích viết những thứ gì, vv và vv… Trường hợp họa hoằn, tác động bên ngoài lại “có ích” cho mình, mà không “bắt” mình phải thay đổi bản chất, không bắt mình không được là mình nữa, thì có thể khai thác. Chính cái trường hợp thứ hai này làm nhiều người bảo ông “khôn” và phê phán ông nặng lời quá đến nỗi có lần bất đắc dĩ ông phải viết trên báo HÀ NỘI MỚI, đại ý : “Bảo tôi khôn ? Nếu “khôn” tôi đã xin nhà nước cấp một căn nhà, như đã cấp cho bao cán bộ khác ngang cấp, nhiều khi còn cấp thấp hơn tôi, chứ tôi không phải bỏ số tiền còm dành dụm được, mua một cái chỗ ở chật chội lại chui rúc trong một ngõ nhỏ !..”
            Mà ông nói đúng. Ông không “khôn” theo cách người bên ngoài tưởng, khôn để lợi dụng, để “ăn người” mà ông chỉ khôn khi thấy không có hại cho ai, hoặc nếu có hại cùng rất ít, mà chủ yếu để được sống theo cách mình quan niệm. Một trong những thí dụ là trong khi làm Tổng thư ký Hội Nhà Văn kiêm Giám đốc Nhà Xuất bản VĂN HỌC, ông vẫn nhận thêm chân tổ trưởng dân phố, một công việc không ai ép. Vừa công không, vừa vất vả như người ta thường nói “vác tù và hàng tổng” mà chẳng lợi lộc gì (hồi ấy)… chỉ cốt để “được” biết thêm nhiều số phận éo le, nhiều tâm sự…của nhiều “kiểu” người, tóm lại là nhiều chất liệu để viết loại văn mà ông thích và có sở trường.
            Một buổi tối, tiện đường tôi ghé vào nhà thăm ông, gặp đúng lúc ông chuẩn bị “xuống cơ sở”, thế là ông rủ luôn tôi cùng đi. Tôi ngạc nhiên thấy hình như ông thích thú với cái công việc “lo cho dân phố” hoặc “vác tù và” ấy hơn là việc lãnh đạo ở cơ quan văn nghệ ! Hôm ấy ông đến nhà một bác chữa xe đạp, tìm hiểu chuyện khúc mắc giữa hai vợ chồng bác ta. Sáng nay bác ta đánh vợ đến mức hàng xóm phải đưa bác gái đi cấp cứu ở Bệnh viện. Tô Hoài trò chuyện với bác chữa xe đạp thân tình như người trong nhà. Tôi càng thấy rõ tính tò mò muốn hiểu ngọn ngành những phức tạp trong cuộc sống rồi cùng nhân sự đi tìm cách giải quyết, tò mò và thích thú hơn cả khi trò chuyện với đồng sự hoặc cấp dưới ở cơ quan Hội Nhà Văn hay Nhà Xuất bản…. 
            Nhân bàn đến chuyện “khôn hay dại”, tôi nhớ một buổi trò chuyện khác giữa ông và tôi…
            - Tôi thấy họ bảo anh “khôn” là có lý do… Nhiều khi anh “bắt cá hai tay”, thí dụ như cái lần anh đã cầm sẵn quyết định và hộ chiếu đi họp ở nước ngoài nhưng vẫn nhận lời anh em đề cử vào chân Chủ tọa Hội nghị…
            Ông cười ;       
            - Thế nhỡ chuyến đi bị trắc trở, không đi được nữa thì sao ? Với lại sống ở đời phải “khôn” chứ. Cậu có nhớ câu chuyện Khổng Từ bàn về khôn và dại khi có người hỏi : “Người khôn sống lâu hay người dại sống lâu ” không ?
            - Có ạ. Tôi có đọc nó trong cuốn “CỔ HỌC TINH HOA” của Nguyễn Văn Ngọc…
            - Thế hả ? Nhưng mình cũng nhắc lại nhé. Một người hỏi Đức Khổng “Người khôn sống lâu hay người dại sống lâu ” Đức Khổng trả lời, đại khái là : “Khôn mới sống lâu chứ dại làm sao sống lâu được ? Người ta chết nhiều khi không phải vì hoàn cảnh bắt chết mà vì không biết lượng sức mình…” vân vân…
           -Tôi hoàn toàn tán thành ! Tôi cũng nhớ và rất thích truyện ấy.
            - Một trong những cái dại khác là có điều kiện để được “là chính mình” mà lại bỏ qua chỉ vì sĩ diện hão, vì “lương tâm cắn dứt”… Ôi chao ! Lương với chẳng Tâm !
            - Tôi nhớ trong kịch bản biên niên HENRY IV của Shakespeare có đoạn đối thoại giữa hai gã lính. Một gã bảo :”Tao đố mày biết tao căm thù cái gì nhất đấy ?” Thằng kia hỏi : “Chịu ! Cái gì ?” Thằng thứ nhất đáp “Lương Tâm !” – Sao mày lại căm thù nó ? Cái lương tâm ấy ? – Vì nó làm tao thiệt hại vô kể. Tao kể mày nghe nhé. Tao nhặt được một túi tiền ai đánh rơi trên đường. Mở ra toàn tiền vàng, Mà nhiều lắm. Tao đang túng, đang nghĩ làm sao có tiền đong bột mì cho vợ con, đã tính đem về đong ít bột mì cho vợ con đang đói. Thì cái thằng Lương Tâm khốn kiếp ấy ngăn lại : “Không được.  Đấy là tiền của người khác !” Thế là tao cất công tìm người đánh rơi trả lại cho họ. Được mỗi câu cảm ơn xuông ! Mà thằng cha là một hầu tước giầu nứt đố đổ vách. Cái túi tiền ấy đối với mình thì quý vì cứu đói được cho mấy mạng, chứ đối với hắn ta thì chỉ như “muối bỏ bể”..  Rồi chuyện thứ hai là thằng cha hàng xóm của tao vừa già vừa ốm yếu, lại dị dạng, nhưng có con vợ đẹp như tiên nga giáng thế, mà trẻ măng. Cô nàng mấy lần gạ tao nhưng thằng cha Lương Tâm khốn kiếp kia nó lại nhắc tao, không được, làm thế là không chung thủy với vợ và lại là chơi xấu với hàng xóm láng giềng…” Thế là tao đành bấm bụng khiến về sau con ả đâm thù tao, cho là tao khinh nó ! Mày thấy tao căm thù cái Lương Tâm có oan không, hả ?”
            Ông Tô Hoài ôm bụng cười :
            - Chí lý. Cái gọi là “Lương Tâm” ấy tàn hại thật. Giống như bây giờ cái “Lập Trường”…
            - Cái “Đạo Đức” nữa chứ ạ ! Cái mà một anh bạn cùng học ngày trước với tôi định nghĩa là “cái đạo ở bên Đức”, nghĩa là không làm gì có, giống như người miền Nam bảo : “Có mà đến Tết Công-gô !” nghĩa là không bao giờ, vì dân Công-gô có ăn Tết như dân ta đâu.
            - Đúng thế. Cần thêm cả cái sĩ diện hão nữa. Những thứ ấy cũng tàn hại khối anh, khiến họ không còn là “chính họ” nữa mà biến thành kẻ khác. Đang là người thật thà chất phác bỗng thành một thằng dối trá, tham nhũng… Cái giá ấy nhiều người coi là “rẻ” nhưng mình và hình như cả cậu nữa, coi là “quá đắt”. Không được là chính mình thì coi như chết rồi. Đúng không, cậu ? Thế cậu bảo bị những thứ ấy tác động là khôn hay dại ? Ngoài mấy cái dại Cụ Khổng kể, còn cá dại hai anh em mình vừa nói ra với nhau ấy.
            Nói xong ông lại cười ngặt nghẹo.
            Rồi một lần khác, tôi kể ông nghe môt chuyện vừa xảy ra với bản thân tôi. Chẳng là (năm 1990) tôi mới nghỉ hưu, về tham gia sinh hoạt Tổ Cựu chiến binh Người cao tuổi ở Phường. Cách đây mấy hôm, nhân bàn về nhà du hành vũ trụ, anh hùng Phạm Tuân (Phường chúng tôi nằm trong khu quản lý của Binh chủng Phòng Không- Không quân và Phạm Tuân là tư lệnh Binh chủng.)… Tối hôm ấy, một Cụ bưng ra khay trà. Bọn già chúng tôi nhấm nháp trà và nhân trăng sáng, tức cảnh sinh tình, một Cụ đề nghị làm thơ tập thể kiểu thơ “Con cóc”. Mỗi cụ làm một câu, nối nhau, kiểu “Con cóc trong hang. Con cóc nhẩy ra. Con cóc ngồi đó, Con cóc nhẩy đi…” Cả mấy lão già cựu chiến binh có mặt đều khoái cái trò lý thú ấy, nhất trí. Đề tài là “vịnh Ngài Tư lệnh”, chẳng là ông ta quá tham gây dư luận rất xấu trong quân chủng. Một Cụ ra câu đầu “Phạm Tuân lên gặp ông Trời.” Cụ thứ hai tiếp : “Trời hỏi lên đây làm gì ?” Cụ thứ ba tiếp luôn : “Tuân nhe răng trắng cười khì.” Mọi người im lặng, đang suy nghĩ câu tiếp theo, tôi ngứa miệng đọc luôn : “Chúng nó cứ bắn tội gì không lên ?” Tất cả vỗ tay ầm lên. Một Cụ, cựu Đại tá (chúng tôi gọi là “đại tá i-nốc”) phán “Hay quá ! Chúng nó cứ bắn tội gì không lên… Hay ! Tuyệt ! Chưa bao giờ tôi thấy một câu thơ hay và ý nghĩa sâu sắc đến thế ! Chúng nó cứ bắn tội gì không lên ? Hay. Có mà thằng đần thì mới từ chối một dịp may hiếm có như thế ! Câu của Cụ quá hay ! Đệ bái phục huynh đấy”
            Ông Tô Hoài lại cười:
            - Câu của cậu đúng là hay. Và cũng trúng vấn đề hai anh em mình hay bàn. Khôn hay dại ? Nhiều người bảo mình ham chức quyền ! Thì mình có tranh chức của thằng nào đâu, có đấm đá đứa nào  để leo lên đâu ? “Người ta cứ bắn, tội gì không lên ?” Mà cái chức Tổng Thư Ký Hội hay Giám đốc Nhà xuất bản thì có gì mà to ? Với lại mình nhận chức ấy không để ăn cắp, nhận hối lộ, để bắt nạt ai, cũng không để sĩ diện với bà con xóm giềng, nhưng chính nhờ nó mình có thêm điều kiện thực hiện được một mong ước nào đấy…
            - Được “vẫn là chính mình”.
            - Đấy là một, nhưng còn một mong ước khác. Mong ước gì ? Đố cậu đấy.
            - Là dễ được đi đây đi đó, nhất là đi nước ngoài ?
            - Được “ngao du”…Chính xác ! Mà “ngao du” để làm gì ? Để được tiếp xúc với nhiều loại người, gặp nhiều cái sự bất ngờ, nghe nhiều chuyện “lạ”… có nhiều dịp hiểu thêm sự đời, thú vị nhất là người thuộc các dân tộc khác…Bởi cậu đi nhiều nước, thừa biết rồi : tính cách người Nga rất khác tính cách người Hung, rất khác người Bun, rất khác người Đức… Ngao du để thỏa chí tò mò. Mà mình là thằng tò mò. À, mà hình như cậu cũng thế, đúng không nào ? Cậu biết không, chính nhờ cái mác đảng viên, mác “nhà văn”, rồi cái chức Tổng thư ký, rồi Giám đốc ấy… mình buộc phải giải quyết nhiều khúc mắc trong anh em, nhân đấy hiểu thêm con người bao nhiêu. Hơi bận một tý nhưng có ích, rất có ích. Nhất là với một nhà báo như mình. À mà cậu biết không, họ gọi mình là “nhà văn”, thật ra mình là nhà báo. Nhưng cái danh hiệu “nhà văn” nghe có vẻ oai hơn và cũng có thêm vài thuận lợi khác, để ngao du đây đó và cũng để dễ trò chuyện và người ta dễ chân thật thổ lộ tâm tư thầm kín.
            - Tôi tưởng nhà văn với nhà báo đều viết lách cả.
            - Khác nhau đấy. Nhưng thôi, chuyện ấy ta để lúc khác. Mình có vài cuốn truyện nhưng thật ra vẫn là nhà báo. Lắm lúc mình cứ suy nghĩ, loại như mình đúng ra là nhà báo nhưng nhà nước muốn bỏ  chung vào một cái rọ cho dễ quản, nên gọi tất những ai viết là “nhà văn”. Về sau họ đặt ra Hội nhà báo là tách riêng những người họ thấy phải quản chặt hơn về lập trường chính trị…
            Tôi hỏi :
            - Anh cho phép hỏi, anh quan niệm nhà văn với nhà báo khác nhau chỗ nào ạ ?
            - Nhà văn tài ở chỗ “bịa”, nói danh từ gọi là “hư cấu” ấy, còn nhà bào thì chuyện đời thế nào cứ viết y như thế, có sang sửa chỉ là “chút ít”.           
            - Tôi hiểu. Chính vì thế, mặc dù rất bận việc cơ quan, nhưng anh vẫn nhận thêm chân tổ trưởng dân phố. Cái chân “vác tù và hàng tổng” cũng giúp anh hiểu thêm tâm tư, tính nết từng người trong tổ, từ bà bán sôi, bà hàng xén đến ông chữa xe đạp, anh kéo xe ba-gác… Chứ không phải để xin cấp nhà, kiểu như thằng cha Nghiên ?
            - Đúng thế. Mà lão Nghiên, không phải lão xin đâu mà “chúng nó cứ bắn tội gì không lên?” Chà câu thơ của cậu chính xác trong vô vàn trường hợp. Về lão Nghiên thì theo mình biết, lão không cố tình lợi dụng. Tham thì thằng đếch nào chẳng tham. Thằng đếch nào chẳng muốn lắm tiền, nhưng Nghiên không phải loại “kiếm tiền bằng bất cứ giá nào”. Mà chỉ vì “chúng nó cứ bắn…”, à quên, “ cứ cấp”  tội gì không nhận “. Nói rồi ông lại cười ngặt nghẹo…


            IV
            Chỉ một câu chuyện hôm ấy cũng đủ làm tôi càng thấy con người ông Tô Hoài rất gần với con người tôi và giả sử “chúng nó cứ bắn” thì tôi cũng dại gì “không lên”. Mình không chạy, không đạp thằng này hất thằng kia, nhưng người ta cứ “bắn lên”, cứ “cấp cho” thì sao lại từ chối ?
            Một chuyện nữa cũng nói lên “con người thật” của ông và tôi càng thấy ông giống tôi. Đấy là trong một cuộc họp nghe “đồng chí” Tố Hữu huấn thị. Trong khi Tố Hữu dướn ngươi lên cho đỡ lùn, cho thêm “oai” và lên giọng dạy đời : “Muốn có tác phẩm lớn, tác phẩm chân chính thì văn nghệ sĩ phải đi sâu tìm hiểu thực tế cuộc sống và phản ánh trung thực nó… Nó thế nào nói đúng như thế..” Đến đấy bỗng nhiên có tiếng ai nói rất to bên dưới “Áy chớ, đừng xui dại nhau !” Nhìn, thì ra Tô Hoài. Vị quan lớn, “lãnh tụ” văn học nghệ thuật, nắm quyền sinh quyền sát văn nghệ sĩ trong tay, thế mà khi thấy câu ấy tưởng từ miệng “thằng phản động” nào, và tính “mày sẽ chết với tao” ai ngờ lại là Tô Hoài ! Vị đại quan đành làm ngơ, coi như không nghe thấy vì cãi nhau với cái lão nhà văn già kia chỉ có thiệt. Vị đại quan đành giả điếc, tiếp tục lên giọng thao thao những câu dạy đời, hoặc gọi là “xui dại”, thí dụ phải giữ vững quan điểm Mác-Lê, phải nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa…
            Tôi bổ xung :
            - Cái phương pháp mà trong một Đại hội Nhà văn Xô-viết thời kỳ “băng tan”, lúc ấy (năm 1961) tôi là sinh viên được ngồi dự thính, văn hào Nga-xô-viết Leonid LEONOV đã lên án, nguyên văn như sau : “Chúng ta không có tác phẩm thật sự, đáng gọi là văn chương, chỉ vì chúng ta đã phạm một sai lầm rất lớn, nếu không nói là lớn nhất : đấy là chúng ta đã tạo cho công chúng một cách thưởng thức nghệ thuật phi nghệ thuật…” Cái sai lầm ấy chính là phương pháp hiện thực XHCN…”
            Viết đến đây, tôi chợt nhớ “đừng có xui dại” là câu ông Tô Hoài đã không chỉ một lần nói với tôi. “Đừng xui dại tớ”… hoặc “Cậu đừng nghe chúng nó xui dại, bảo cái này cái nọ là quan trọng nhất. Thật ra theo mình, cái quan trọng nhất là những nhận xét, ghi chép về những oái oăm, éo le trong cuộc sống, mình gọi chung là những mảnh đời…bi hùng hoặc hài hước
            V
            Thỉnh thoảng có dịp đi đâu (đến tỉnh nào đấy chẳng hạn), ông hay rủ tôi. Bây giờ nghĩ lại tôi rất tiếc. Nhiều chuyến đi ông rủ, tôi mải mê nghề đạo diễn hoặc đang viết một kịch bản dở dang, đã thoái thác, mặc dù mỗi chuyến đi ấy tôi học được bao nhiêu điều. Và tôi nhớ một lần tôi may mắn được đi với ông một chuyến tương đối dài ngày, một trong những “chuyến đi” tuyệt vời nhất trong đời của tôi. Trong chuyến “ngao du” (hoặc gọi là “lang thang” dài gần hai tuần lễ ấy, tôi hiểu thêm được bao nhiêu điều. được nghe ông bộc lộ bao nhiêu suy nghĩ thầm kín và nghe ông kể rất bao nhiêu chuyện ly kỳ, éo le… nhưng có thật ngoài đời, đa số những chuyện ấy ông “moi” được từ miệng những người trong cuộc, và chắc chắn ông phải có tài “moi” siêu đẳng mới moi được…
            Phải nói về mặt “moi” chuyện, Tô Hoài thuộc loại “siêu”. Ông cứ nhẩn nha hỏi (quan tâm thật sự chứ không phải “làm ra vẻ” quan tâm), một cách giản dị và chân thành, kèm theo một tấm lòng thông cảm (bản chất ông hay thương người, rất thông cảm với những mành đời bất hạnh, những khúc mắc riêng tư… và sẵn sàng giúp đỡ, có khi bằng một lời khuyên chân tình, có khi cả bằng vật chất…) Nói “moi” có thể gây hiểu lầm, thật ra đúng là ông muốn hiểu kỹ, hiểu tỷ mỉ, chi tiết, nhưng với động cơ thương cảm, hoặc tò mò (của nhà báo, của cây bút chuyên viết phóng sự) thật sự… Cái tính tò mò hết sức đáng quý ấy tôi đã thấy có rất rõ ở một số nhà báo quen biết của cha tôi, như Vũ Trọng Phụng, và đặc biệt là Ngô Tất Tố…
            Cái dịp hết sức may mắn ấy đến thật bất ngờ, và may mắn thay tôi đã không thoái thác.
            Nguyên do bắt nguồn từ một chuyến đi khác, trước đấy. Không phải với Tô Hoài mà với Lưu Trọng Lư (nhà thơ). Chẳng là “lấy cớ” chuẩn bị cho Hội diễn Tòan quốc lần đầu tiên sau thống nhất, lần đầu tiên có cả các đơn vị biểu diễn sân khấu các tỉnh phía Nam tham gia, tức là gồm cả Trung-Nam-Bắc, dự định tổ chức vào năm 1980, nhà thơ Lưu Trọng Lư Lư lúc ấy là Tổng thư ký Hội Nghệ Sỹ Sân khấu, kiêm luôn Trưởng ban Trù bị của cái Hội diễn quan trọng và hứa hẹn hoành tráng ấy, quyết định tổ chức một chuyến đi kiểm tra các tỉnh, mục đích “nắm” tình hình các đơn vị biểu diễn đã chuẩn bị đến đâu để tham dự cái Hội diễn quan trọng ấy. Đúng ra phải có một đoàn, nhưng ông Lư chỉ kéo tôi và một bạn nhà thơ trẻ, lại không phải người của Hội NSSK mà cả ông và tôi đều rất yêu mến. Hai chúng tôi ngầm hiểu thực chất đây là một chuyến “ngao du”.
            Hôm đến Lạng Sơn, vì có “nhà thơ lớn” nên cũng như ở nhiểu tỉnh khác, ông Bí thư Tỉnh tiếp. Không biết do rượu hay do gì, ông Bí Thư vui vẻ ngỏ ý muốn “đặt” một cây bút của Hội NSSK viết cho một kịch bản về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đề tài mà ông tha thiết và “còn nợ” tiền bối. Trong bữa tiệc có mặt cả Phó Bí thư Tỉnh Ủy kiêm Trưởng ban Tuyên Giáo Tỉnh. Ông này tiếp lời và đề xuất là mời tôi. Ông hứa sẽ tạo mọi điều kiện nếu tôi nhận lời. Tôi còn đang phân vân thì ông Lư hích tôi rồi nói nhỏ “Nhận đi !” Thế là tôi nhận lời và hẹn tháng sau sẽ lên tận nơi nghiên cứu để viết.
            Về Hà Nội, chuẩn bị lên xứ Lạng, tôi sực nhớ ông Tô Hoài từng “nằm” khá lâu ở Bắc Sơn và quen biết rất nhiều người (chỉ một số còn sống và đều quá già) đã trực tiếp tham gia hoặc chưng kiến cuộc khởi nghĩa, tôi bèn đến gặp Tô Hoài, nhờ ông giới thiệu và cho địa chỉ một số nhân vật ấy để tôi dễ tiếp xúc và hỏi chuyện, kiếm tư liệu. Nghe tôi hỏi, ông nói luôn :
            - Cậu định đi bằng gì ?
            - Bằng tầu hỏa hoặc xe ca ạ.
            - Thế sao cậu không rủ mình cùng đi ? Đi với mình cậu sẽ được ngồi Volga êm như ru. Bởi chỉ cần mình phôn cho Tỉnh Ủy là họ cho ngay Volga về Hà Nội đón hai anh em mình. Và lên đến đấy họ sẽ tiếp hai ta như thượng khách…Cậu tính đi : hôm nào cậu đi được ?
            VI
            Quả nhiên buổi tối trước hôm tôi hẹn với ông, một chiếc xe Volga đen bóng loáng đến đậu trước cửa nhà tôi. Cậu lái xe cho biết, cứ cẩn thận đến trước một đêm, để mai đi sớm được. Cậu còn cho biết đã ghé qua nhà ông Tô Hoài và hẹn sáng mai chở tôi lên đón ông ấy rồi cùng đi. Tỉnh Ủy tiếp đãi hai anh em chúng tôi đúng là “thượng khách”. Ăn bữa thết đầu tiên xong, ông Tô Hoài ghé tai bảo tôi : “Mình có chủ trương bữa nào nhiều thức ăn thì ăn thức ăn là chính, cơm là phụ, thậm chí không cần ăn cơm. Còn bữa nào thức ăn dớ dẩn thì mình lại coi ăn cơm là chính, cốt no bụng đã.”
            Cách suy nghĩ thực tế và “khôn” thể hiện cả về chuyện bệnh tật, khi ông bảo tôi : “Mình nghiệm thấy nhiều bệnh không cần thuốc cũng khỏi, trái lại có những bệnh thuốc giời cũng không khỏi.” Và tôi biết ông rất ít khi dùng thuốc, hầu như không dùng bao giờ, nhất là “thuốc Tây”. Cảm thì xông lá, ho thì ngậm mật ong, và thường ông để mặc, cho bệnh tật hành chán rồi “buộc” phải rút lui.
            Sau mấy ngày chiêu đãi ở Tỉnh, tôi ngỏ ý đến Bắc Sơn. Ông bảo để ông cùng đi, ông còn giới thiệu những “cơ sở” cuộc khởi nghĩa ngày trước, và nhất là “bắt” họ (lãnh đạo Huyện Bắc Sơn) phải cung cấp chăn nệm sang trọng cho cậu… Quả thật, lại xe Volga chở hai anh em chúng tôi đến Bắc Sơn. Cả ông Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Trưởng Ban Tuyên Giáo cũng đi cùng để “tháp tùng” và yêu cầu Huyện đối xử đặc biệt chu đáo với “hai nhà văn”.
            Ngồi trong xe, trong lúc chờ ông Phó Bí thư, ông Tô Hoài bảo khẽ tôi : “Cậu ta (ông Trưởng Ban Tuyên giáo) mới lên chức, đang tha thiết học hỏi. Cậu ta đưa hai anh em mình đi, đâu phải việc của Phó Bí Thư hay của Trưởng Ban Tuyên Giáo, nhưng cậu ta thích nghe chuyện của mình…” Nói xong, ông cười hóm hỉnh : “Cậu ta khôn thì mới đưa hai anh em mình đi …” Mà đúng thế. Dọc đường, ngồi trong xe, ông ta hỏi đủ chuyện “để học”.
            Hai hôm sau ông Trưởng Ban Tuyên Giáo về Tỉnh, hai anh em chúng tôi bắt đầu công việc. Ông Tô Hoài dẫn tôi đến từng “cơ sở” cũ. Tôi không thể ngờ ông hiểu hoàn cảnh từng người đến thế.Hầu hết đều đã già và lắm bệnh tật. Tất cả đều coi ông như người nhà và ông hỏi thăm về từng thành viên trong gia đình “Thằng X. lấy vợ chưa ?” “Cháu L. chưa lấy chồng à ? Cháu năm nay phải dến 19 rồi ấy nhỉ ?” – “Cậu S. có mấy con rồi ?”… Tóm lại, ông coi họ đều như người thân, hiểu rõ gia cảnh, của cải, tính nết từng thành viên trong mỗi gia đình… Mà hàng chục gia đình chứ có ít đâu. Trí nhớ của ông dúng là siêu đẳng ! Thậm chí ông quan tâm và thuộc cả bệnh tật và hoàn cảnh tình duyên trắc trở của hầu như gần hết các thành viên trong mỗi gia đình “cơ sở”.
            Lúc đầu tôi tưởng ông chỉ lên chơi và làm “khách quý” của Tỉnh, nhân tiện kiếm cớ để tôi lên đấy tìm hiểu tình hình nhanh chóng, ai ngờ đến đất này ông như về nhà, như “về quê cũ”, và rõ ràng ông được mọi người tiếp đón thân tình đến mức làm tôi ngạc nhiên, rồi thán phục tài “làm thân” với mọi người. Thật ra “bí quyết” của ông chỉ là thật sự quan tâm đến từng chi tiết trong cuộc sống của họ và tạo được mối quan hệ gần gụi, thân tình, tin cậy…
            Hàng ngày ông đưa tôi đến một hai gia đình “cơ sở” rồi trò chuyện, thăm hỏi, đồng thời giới thiệu cho tôi thành tích tham gia cuộc khởi nghĩa ngày ấy, rồi gợi chuyện, mục đích để tôi hiểu tình hình cuộc khởi nghĩa ngày ấy. Ông còn dành khá nhiều thời gian dạo chơi với tôi trên các sườn đồi hay trong rừng…và hai anh em trò chuyện đủ thứ. Ông kể rất nhiều “chuyện đời”. Toàn những chuyện rất lạ và rất hay. Trong số ấy có vài chuyện tôi nhớ cho đến hôm nay, sau gần bốn chục năm.
            Tôi ở đấy, tìm hiểu tình hình và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, đồng thời phác qua dàn bài cho kịch bản tương lai. Ông Tô Hoài lúc nào cũng đi cùng và trò chuyện với mọi người, mọi nhà, có vẻ “ngầm” giới thiệu với tôi những chi tiết cần chú ý. Tôi không ngờ ông lại dành thời gian “nằm” ở đấy với tôi suốt mười hai ngày như thế. Nhưng những ngày ấy quả là những ngày “tuyệt vời”… hai anh em lúc nào cũng đi cùng và trò chuyện đủ thứ. Tôi cảm thấy ông cũng thích thú với công việc này. Chuyến đi giúp tôi hiểu rõ thêm con người ông và càng yêu mến ông hơn. Bên cạnh đấy, ngoài những “tìm hiểu” về con người và diễn biến của cuộc khởi nghĩa, ông còn tâm sự với tôi nhiều thứ, đặc biệt là kể tôi nghe vô số chuyện lý thú, rất nhiều chuyện “lạ” và bất ngờ đối với tôi. Nào chuyện hai vợ của ông Chu Văn Tấn, ông phải đưa bà hai đến sống ở Đại Từ, và bao chuyện rắc rối xung quanh hoàn cảnh gia đình, vợ con của ông “tướng” ấy cùng nhiều nhân vật khác nữa.
            Rất nhiều chuyện nay tôi chỉ còn nhớ mang máng và chúng giúp ích tôi rất nhiều trong hiểu biết sự đời, tâm lý mỗi loại người, những hoàn cảnh éo le. Riêng một chuyện tôi nhớ rất rõ vì nó bất ngờ đối với tôi, đồng thời giúp tôi hiểu sâu thêm về cuộc sống, về đời thật mà sách vở thường bỏ qua, nhưng lại giúp ích được rất nhiều những ai muốn hình dung cuộc sống sinh động, muôn mầu sắc... Đấy là chuyện về người đã đánh “đòn đầu riên”  (ông gọi là “cú” đánh đầu tiên) trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam. Đại khái tôi nhớ chuyện là như sau :
            Chúng ta đều biết tiền thân của Quân dội Nhân dân Việt Nam là Đội Tuyên truyền Giải phóng quân thành lập cuối năm 1944, sau đấy tiêu diệt hai đồn Pháp là Phai Khắt và Nà Ngần. Có một chi tiết như sau. Khi bàn bạc và quyết định, lần ra quân dầu tiên phải thắng, anh em trong đội bàn nhau “cách” đánh. Đòn Phai Khắt chỉ có khoảng hai chục tên, là lính khố xanh, chỉ huy là một hạ sĩ quan Pháp. Anh em thống nhất cách đánh là cho một tốp giả làm lính khố xanh, coi như “thay quân”, tiến vào rồi trong đánh ra ngoài đánh vào. Kiếm quân phục lính khố xanh thì dễ, nhưng khó một nỗi là giấy tờ. Tên lính gác tất sẽ hỏi và kiểm tra giấy tờ. Khi ấy cần một người đánh một “cú” thật mạnh, vào chỗ hiểm khiến hắn chết ngay, hoặc ít nhất cũng bất tỉnh, không kịp kêu. Nhưng ai ra cái đòn ấy ? Trung đội nhiều người giỏi võ nhưng bảo đảm đánh một cú hắn bất tỉnh ngay không kịp kêu thì không ai dám đảm nhiệm. Bàn tính mãi chưa tìm ra người, thì một đội viên đưa ra ý kiến. Có một ông người dân tộc, chuyên bán cao đơn hoàn tán ở chợ Quảng Nguyên, chắc chắn rất giỏi võ, vì mỗi lần đến chợ đều đi một bài quyền để thu hút dân chúng… Hay ta thuyết phục ông ấy giúp. Đội phân công một người giỏi tiếng dân tộc đến gặp và đề xuất ý kiến. Ông bán thuốc ê vui vẻ nhận lời. Và hôm tấn công, ông ta cũng cải trang thành lính khố xanh, đi đầu. Khi tên lính gác hỏi giấy tờ, ông ta đấm một cú trời giáng vào mang tai khiến tên lính gác gục xuống, bất tỉnh ngay, không kịp kêu cứu. Thế là cả tốp ung dung đi vào và trong đánh ra ngoài đánh vào, chỉ hai chục phút là làm chủ được đồn. Làm xong việc, ông bán thuốc ê ấy chia tay. Đội thuyết phục ông ấy gia nhập đội, nhưng ông ấy từ chối, nói : “Thấy việc nghĩa thì làm thôi !” rồi lại tiếp tục nghề bán cao đơn hoàn tán.
            Tôi hỏi, bây giờ ông ấy ở đâu. Ông Tô Hoài trả lời, thì ra ông ta là người Kinh, giả làm người dân tộc để bán thuốc ê. Sau đấy ít năm ông ta cao tuổi, bỏ nghề, về quê ở Thái Bình sinh sống với con cháu. Ông Tô Hoài kể là chuyện ấy ông nghe chính miệng ông Giáp kể lại, và ông Giáp còn cho biết đến bây giờ (khoảng năm 1960) người đánh “cú” đầu tiên ấy đã rất già. Quân đội biết ơn, ngoài việc đề nghị địa phương chăm sóc giúp đỡ, mà những ngày lễ Tết đều cử người đem quà hậu hĩ về biếu xén chu đáo…
            Và còn rất nhiều chuyện ly kỳ, sống động và rất “cuộc đời” ấy tôi được nghe ông Tô Hoài kể.
            Tạm kết thúc, và xin nói ngay : ông Tô Hoài theo tôi nhận xét là như thế đấy. Tôi cũng xin báo rằng rất có thể tôi chỉ nhìn thấy một mặt của ông và cũng có thể cái nhỉn ấy không chính xác. Nhưng tôi thấy vẫn nên nói ra…
Tết Ất Mùi (2015)
VŨ ĐÌNH PHÒNG