KHÁI HƯNG TRẦN KHÁNH GIƯ (1896-1947?):
(NỖI BUỒN NGƯỜI TRÍ THỨC TRONG CUỘC ĐỔI ĐỜI ĐẦY BẠO LỰC, XƯƠNG MÁU)
Tác giả:
Nguyên Vũ
KHÁI HƯNG gốc làng Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Dương–nơi chính quyền Bảo hộ
Pháp từng dùng bom đạn san bằng sau cuộc khởi nghĩa mùa Xuân năm 1930
của Việt Nam Quốc Dân Đảng [VNQDĐ]. Thân phụ là Trần Mỹ, Tuần phủ Phú
Thọ [Thái Bình?]. Trong số 4 anh em, Trần Tiêu cũng đi vào đường văn
bút, tác giả Con Trâu. Nhạc phụ ông, Lê Văn Đinh, từng nắm Tổng đốc Bắc
Ninh. Theo học chương trình Pháp tại lycée Albert Sarraut Hà Nội, ông bỏ
ngang việc học sau năm Đệ Nhất (ban Cổ điển). Dạy học tại trường tư
thục Thăng Long.
*
Khái Hưng khởi nghiệp bằng đường báo chí, từ
khoảng năm 1930. Tác phẩm đầu tay là Hồn Bướm Mơ Tiên (1933), nhưng tiểu
thuyết nhiều người đọc nhất là NỬA CHỪNG XUÂN (1934), từng được dùng
làm tài liệu giáo khoa Việt văn tại miền Nam.
Đây là chuyện tình đầy
lãng mạn giữa Lộc, con một quan huyện, và Mai, một thiếu nữ xinh đẹp,
tài đức, nhưng cha chỉ đậu Tú tài, không bước được vào hàng "danh gia,
thế phiệt." Trước sự chống đối của mẹ, Lộc thuê người làm đám cưới giả
với Mai, và hai người sinh hạ được một trai. Khi biết sự thực, mẹ Lộc
hết sức chống đối, bày kế ly gián, rồi thuyết phục Lộc cưới một người vợ
chính thức con quan. Ít lâu sau, biết được mưu kế của mẹ, Lộc đề nghị
Mai mang con theo mình đến một nơi thật xa, sống bên nhau đến trọn đời.
Mai từ chối, khuyên Lộc nên trở lại với gia đình, dù vẫn còn thương yêu
Lộc, vì như thế mới giúp mối tình giữa hai người cao thượng hơn. Lộc
chẳng còn biện pháp nào khác, nhưng tự hứa sẽ dành phần đời còn lại để
phục vụ xã hội.
*
Trong những tác phẩm kế tiếp như
Trống Mái
(1936),
Cái Ve (1936) cùng những tuyển truyện ngắn
Giọc đường gió bụi
(1936),
Tiếng Suối Reo (1937),
Đồng Xu (1939),
Đợi chờ (1939), tiểu
thuyết
Thoát Ly (1936),
Thừa Tự (1940),
Hạnh (1940), hay ba tác phẩm
viết chung với Nhất Linh trong năm 1934-1935–
Anh Phải Sống,
Gánh Hàng
Hoa,
Đời Mưa Gió–Khái Hưng tiếp tục khai thác sự tương phản giữa "cựu và
tân," "gia đình với cá nhân," "thị dân và nông dân," "thượng lưu với
cùng đinh," "học thức với vô học," v.. v... Đây là những vấn nạn đối đãi
của xã hội Việt trong thập niên 1930, giữa tiến trình toàn cầu hóa,
trong khuôn khổ "khai hóa thuộc địa" của Pháp và sự đe dọa của những
lượn sóng thần ý thức hệ–từ quân phiệt Đức-Nhật, tới vô sản quốc tế–đang
xâm nhập, phá vỡ và cải biến Việt Nam "cổ truyền."
*
Trên bối cảnh
này, giới thanh niên nam nữ của tiểu thuyết và truyện ngắn Khái Hưng
hướng về mục tiêu tự trau luyện tinh thần và thể chất, tham gia cải cách
xã hội, và nếu cần, gia nhập một tổ chức bí mật nào đó. Từ
Tiêu Sơn
Tráng Sĩ (dã sử tiểu thuyết) tới
Giọc đường gió bụi, v.. v... Khái Hưng
phản ánh những tư tưởng "cách mạng lãng mạn" tương tự như Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam (1908 [1906]-1963) trong
Đôi Bạn (1937). (1)
*
So
với giấc mộng "phi Cao đẳng bất thành phu phụ" giai đoạn này, nhân vật
tiểu thuyết Khái Hưng quả thực lãng mạn, không tưởng. Nhưng so với phong
trào "thoát ly" của Đảng CSĐD–tiêu biểu bằng Nguyễn Thị Vịnh (Minh
Khai) trốn qua Trung Hoa "kết hôn với kách mệnh," Nguyễn Thị Thập bỏ
chồng con lên Sài Gòn hoạt động–hay Cô Giang, cô Bắc của VNQDĐ, nhân vật
nữ của Khái Hưng chưa bước đủ những bước dấn thân cần thiết. Và, đã
hẳn, với những người chủ trương nam nữ bình quyền, giải phóng phụ nữ
[feminists] khó thể chấp nhận cảnh Nửa Chừng Xuân, thắt bụng nuôi con.
Ngay trong giới người Việt tị nạn, những nhân vật Khái Hưng đã quá lỗi
thời. Không thiếu cảnh vợ bảo trợ chồng, nhưng ngay buổi tái ngộ ở phi
trường, nhẹ nhàng thông báo đã có người trăm năm mới. Người Việt ở
California, chưa quên việc một bà vợ hiền thục một thời, ngay sau khi
được chồng bảo trợ qua Mỹ, đột ngột bỏ rơi người tình đầu đời đã thoái
hóa thành anh chồng vô tư cách. Dù đã ba bốn mặt con, người thiếu phụ
không hẳn đã nuốt nước mắt lấy một người Mỹ để dạy chồng cũ bài học "trả
thù dân tộc."
*
Sự ngưỡng mộ của độc giả dành cho Khái Hưng ở thập
niên 1930 chứng tỏ ông đã phần nào nắm giữ được tâm lý thị dân thượng
lưu miền Bắc. Dù khó thể tránh khỏi những phiền toái với chính thế giới
thượng lưu xuất thân của ông. Điều đáng ghi nhận khác là thái độ ôn hòa
của Khái Hưng khi tiếp cận các vấn nạn xã hội-kinh tế của thời ông. Nhân
vật của Khái Hưng tỉnh táo đối mặt hầu giải quyết vấn đề. Khác với tính
chất bi kịch của Tố Tâm, hay cay sót, châm biếm của Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng, v.. v...
*
Viết về Khái Hưng không thể không nhắc đến
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
Dù cách biệt nhau một thập niên về tuổi tác,
hai người có những liên hệ vượt ngoài làng văn, làng báo. Trước hết do
họ cùng dạy tại trường Thăng Long, và trong ban biên tập Phong Hóa (bộ
mới, số 14 ngày 22/9/1932), rồi Ngày Nay (30/1/1936). Đầu năm 1933, Nhất
Linh lập ra Tự Lực Văn Đoàn, nòng cốt có Khái Hưng, Nguyễn Tường Long
(Hoàng Đạo, Tứ Ly), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam), rồi thêm Nguyễn Gia
Trí, Nguyễn Cát Tường, Thế Lữ, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình
Liên, v.. v... Sau đó, tổ chức nhóm Ánh Sáng (thêm Dương Đức Hiền,
Nguyễn Cao Luyện, v.. v...). Một số trí thức trẻ, kể cả Vũ Đình Hoè, giữ
liên hệ thân hữu, dù không gia nhập, vì mến "tính trung thực và lòng
thành yêu nước" của Nhất Linh. (2)
***
Từ khoảng năm 1939-1940, nhóm
Tự Lực Văn Đoàn ngả về khuynh hướng thân Nhật. Môi giới có thể là Lý
Đông A, Vũ Đình Dy. Và, cuối cùng, tổ chức thành đảng Đại Việt Dân Chính
do Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Người ta không biết nhiều về chủ
thuyết của Đảng này. Cán bộ vỏn vẹn ít chục người, phần lớn cư trú ở các
thành thị, nhất là Hà Nội. Nó mới chỉ có tính cách một nhóm chính trị,
với những quan điểm tương đồng, hơn một đảng cách mạng. Đây là đặc tính
chung của hầu hết đảng phái Việt Nam trong thập niên 1930-1940–tức sự
thiếu vắng một tổ chức chặt chẽ, một lực lượng vũ trang, và thế tựa quần
chúng. Tháng 10/1940, dưới áp lực Mật Thám Pháp, Nhất Linh phải nhờ Đại
tá Koike trong Đoàn Kiểm Soát Quân Sự Nhật đưa qua Quảng Châu (Canton,
hay Guangzhou). Sau một thời gian tá túc với nhóm Kiến Quốc Quân của
Hoàng Lương và Lương Văn Ý, Nhất Linh liên hệ đến vụ ám sát Trần Phước
An (Shibata, hay Trần Hy Thánh) ngày 22/7/1943, nên trốn qua Quảng Tây
còn do chính phủ Tưởng Giới Thạch kiểm soát.(3)
Bị bắt giam cùng
vài thuộc hạ vì tình nghi làm gián điệp cho Nhật, nhưng sau đó được
Nguyễn Hải Thần đưa vào Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội (gọi tắt là
Việt Cách hay Đồng Minh Hội), cánh tay phụ lực của Đệ tứ quân khu Trung
Hoa Dân Quốc trong kế hoạch "Hoa quân nhập Việt." Cuối năm 1944, sau khi
Nhật chiếm Liễu Châu (11/11/1944), Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công,
Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, Nông Kính Du và Trần Báo lưu lạc qua Côn
Minh hay Quí Châu. Nhất Linh tới Vân Nam, tham gia chi nhánh VNQDĐ của
Hồng Khanh-Kế Tổ, dưới sự chỉ huy và trợ giúp của Trung Hoa Quốc Dân
Đảng. (4)
Theo Vũ Đình Hoè, cuối năm 1940, đầu 1941, Nguyễn Tường
Tam cùng Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, v.. v... mời Hoè gia nhập Đại Việt
Duy Dân, có khuynh hướng thân Nhật. (5) Chi tiết này cần tìm hiểu thêm.
Theo giới hoạt động chính trị Việt, Đại Việt Duy Dân Đảng do Lý Đông A,
bí danh của Nguyễn Hữu Thanh, thành lập. Lý Đông A, một thành viên Tự
Lực Văn Đoàn(?), gia nhập Phục Quốc của Cường Để, rất thân cận với Hoàng
Lương, cố Vấn của Kiến Quốc Quân tại vùng Lạng Sơn. Sau khi Trần Trung
Lập nổi dậy vào mùa Thu 1940, nhưng thất bại, bị Pháp xử tử ngày
28/12/1940, Đông A lập Duy Dân ở Trung Hoa, nhưng không mấy ai rõ chi
tiết về hoạt động của Đảng này. Về lý thuyết, chỉ có vài luận lý rất đại
cương với khẩu hiệu "lấy dân làm gốc." Cuối năm 1944, Đông A về nước,
bắt đầu tuyên truyền trong giới sinh viên, học sinh. Hai cộng sự viên
đắc lực là Lê Quang Luật và Nghiêm Xuân Hồng. Theo Luật, Luật cũng như
Hồng gia nhập tổ chức thuần vì tình bạn. Ngày 1/9/1945, Việt Minh vây
đánh một căn cứ ĐVDD ở Nga My, Xích Thổ, thuộc Gia Viễn, Ninh Bình, giết
8, bắt 26. Năm 1946, VM tàn sát Đông A và ĐVDD ở Hoà Bình vì "mưu đảo
chính." Chỉ còn 3 cán bộ là Luật, Hồng và Phạm Xuân Ninh, tức Nguyễn Đức
Chinh, Giám đốc Thể Thao và Thanh Niên Bắc Việt năm 1947. Hồng thiên về
Phật giáo, và Luật, giáo dân Ki-tô, Bí thư cho Giám mục Lê Hữu Từ. (6)
*
Cách nào đi nữa, tổ chức của Nguyễn Tường Tam chính thức mang tên Đại
Việt Dân Chính. Khái Hưng gia nhập, nhưng theo một lãnh tụ Đại Việt Quốc
Xã, Khái Hưng thân với Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) hơn Nhất Linh.
Ngày 15/9/1941, khi đại quân Nhật tiến vào Đông Dương, mật thám vây bắt
nhóm Tường Long, Khái Hưng, Gia Trí đưa lên an trí ở Vụ Bản, Sơn La.
Nhiều lãnh tụ không Cộng Sản như Trương Tử Anh cũng bị an trí tại đây.
(7) Năm 1943, vì lý do sức khoẻ, Khái Hưng được đưa về quản thúc ở Hà
Nội.
*
Cuối năm 1944, đầu 1945, để chuẩn bị chiến dịch Mago (sau
đổi thành Meigo, 9-10/3/1945), Nhật khuyến khích các tổ chức tôn giáo,
thanh niên Việt đoàn ngũ hóa, chuẩn bị giành độc lập từ tay Pháp. Một số
trí thức và cựu quan lại được tập họp ở Sài Gòn, lập ra Ủy Ban Kiến
Quốc do Ngô Đình Diệm và Nguyễn Xuân Chữ cầm đầu. Ủy ban này có nhiệm vụ
của một nội các tương lai dưới quyền Cường Để. Một số nhân vật nổi danh
khác–như Trần Trọng Kim, Trần Văn Ân, v.. v... hay Tráng Liệt, Tráng Cử
con Cường Để–được đưa qua Chiêu Nam Đảo (Singapore) hoặc Thái Lan.
Nhưng đầu năm 1945, quan Tướng Nhật đổi ý, muốn giữ Bảo Đại tại vị. Diệm
và Chữ bị loại bỏ. Trọng Kim, đang tị nạn ở Bangkok được đưa về làm
Tổng lý Nội các đầu tiên trong khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á từ
tháng 4 đến tháng 8/1945. (8)
Tại Hà Nội, từ tháng 2/1945, Nhật
cũng tổ chức các đoàn thể Việt vào kế hoạch lật đổ chính quyền Jean
Decoux (1940-1945). Lực lượng thanh niên được chọn làm xung kích. Về
chính trị, Nhật qui tụ hầu hết những khuôn mặt nổi danh nhất miền Bắc
vào Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. Gồm có nhóm Đại Việt Quốc Xã (Nguyễn
Xuân Tiếu), Đại Việt Dân Chính (Nguyễn Tường Long), Đại Việt Quốc Dân
Đảng (Trương Tử Anh), VNQDĐ (Ngô Thúc Địch, Bùi Như Uyên, Nguyễn Thế
Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nhượng Tống), Nguyễn Đăng Đệ, Nguyễn Xuân Dương
tức Lạc Long. Ngày Chủ Nhật, 11/3/1945, báo Tin Mới đăng "Tuyên Cáo"
của ĐVQGLM. Lúc 17G00 cùng ngày–sau khi Bảo Đại tuyên bố độc lập, hủy bỏ
Hoà ước 1884 và hứa hợp tác toàn diện với Khối Thịnh Vượng Chung Đại
Đông Á–ĐVQGLM ra mắt tại Bờ Hồ Hoàn Kiếm dưới tên Đại Việt Quốc Gia Cách
Mệnh Ủy Viên Hội. Tuyên bố thành lập Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời (vào
lúc 9 giờ sáng cùng ngày), sau đổi thành Ủy Ban Chính Trị Bắc Kỳ. Nhưng
sáu ngày sau, 19/3, Ủy Hội Hành Chính Lâm Thời ra "Tuyên Cáo Quốc Dân"
tự giải tán vì "nhân lúc giao thời đã ra đảm nhận mấy công việc cần cấp
như trật tự, cứu tế, v.. v... Nay tình thế đã tạm yên, chúng tôi tự thấy
nhiệm vụ đã hết, xin tuyên bố giải tán, để nhường các ngài có thực tài,
thực đức ra cáng đáng những công việc quan hệ hơn."
*
Lý do chính
là sự thay đổi chính sách Đông Dương của Nhật. Toàn quyền Nhật quyết
định trực trị ở Hà Nội và Sài Gòn. Tới tháng 4/1945, chính phủ Trần
Trọng Kim mới được phép cử Phan Kế Toại, cựu Tuần phủ Thái Bình, làm
Khâm sai Bắc Kỳ.
Ngày 5/5/1945, Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách, Khái
Hưng xuất bản tuần báo Ngày Nay: Kỷ Nguyên Mới. Khái Hưng phụ trách mục
Tiếng Vang.
Trung tuần tháng 5/1945, Khái Hưng có tên trong Tân
Việt Nam Đảng, chính thức thành lập ngày 16/5, "để đoàn kết chặt chẽ dân
tộc VN và củng cố nền độc lập của Tổ quốc." Gồm nhiều nhân vật thành
danh như Đào Duy Anh, Phan Anh, Đỗ Đức Dục, Ngô Thúc Địch, Trần Khánh
Giư (Khái Hưng), Vũ Văn Hiền, Vũ Đình Hoè, Ngô Tử Hạ, Ngụy Như Kontum,
Vũ Đình Liên, Phan Huy Quát, Ngô Bích San, Hoàng Phạm Trấn (Nhượng
Tống), Bùi Như Uyên, Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm. Theo báo Thanh Nghị,
Tổng thư ký ban vận động thành lập là Vũ Đình Hoè. Ngày 2/6/1945, chi bộ
số 1, ở Thuận Hóa ra mắt, với Tôn Quang Phiệt làm Bí thư. Sau đó, Phiệt
làm Tổng thư ký của Tân Việt Nam. Ngày 22/7/1945, tự động giải tán. (9)
Vai trò Khái Hưng không rõ ràng. Ông chuyên về báo chí, tuyên tuyền hơn
tham gia tranh đấu bằng võ lực với phe Việt Minh–tức mặt trận thống
nhất ngoại vi của Đảng CSĐD, với một "đảng" mới được Cộng Sản khai sinh
từ giữa năm 1944 là Dân Chủ, cùng các hội truyền bá quốc ngữ, nông dân
cứu quốc, công nhân cứu quốc, v.. v... (10)
***
Thời gian này, trước
viễn ảnh bại trận của Nhật, có những nỗ lực móc nối giữa nội địa và Hoa
Nam. Ngày 12/4/1945, Y sĩ Nguyễn Tiến Hỷ (Phan Châm, 1916-1992), bạn học
Trương Tử Anh, dẫn một phái đoàn qua Trung Hoa. Y sĩ Hỷ cùng Vũ Hồng
Khanh và Nguyễn Tường Tam đạt thỏa ước lập ra Quốc Dân Đảng hay Việt
Quốc–sử dụng chiêu bài VNQDĐ ở hải ngoại để xin THDQ giúp đỡ, trong khi
tại nội địa tiếp tục dùng tên Đại Việt. Phái đoàn Y sĩ Hỷ, Tường Tam và
Hồng Khanh được Trung Hoa Quốc Dân Đảng khoản đãi nồng nhiệt ở Trùng
Khánh.
*
Việt Minh thế lực cũng ngày một gia tăng. Lợi dụng nạn đói
lan tràn ở miền Bắc, cán bộ Việt Minh tổ chức những cuộc đánh phá kho
thóc, nêu cao uy tín trong dân chúng. Các toán vũ trang tuyên truyền và
ám sát đoàn–dưới sự chỉ huy của cán bộ từng được tình báo Bri-tên huấn
luyện như Lê Giản (Giám đốc Công An Trung Ương), Hoàng Đình Rong, Dương
Công Hoạt (Bí thư Cao Bằng), Pallat Nguyễn Văn Minh (cựu Bí thư Bắc Kỳ),
Nguyễn Văn Ngọc (Giám đốc Công An Trung Bộ), Vũ Văn Địch (Cục trưởng
tình báo quân đội), Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), v.. v...– hoạt động hầu
như công khai ở Hà Nội và các vùng ven thị trấn. Chu Văn Tấn và Võ
Nguyên Giáp thành lập an toàn khu ở vùng Tuyên Quang-Bắc Kạn, trải tới
Cao Bằng. Tháng 5/1945, sau khi nhận lời hợp tác với tình báo Mỹ, Hồ di
chuyển từ Pác Bó xuống Kim Lộng, Tuyên Quang. Toán Con Nai [Deer Team]
của Thiếu tá Allison K. Thomas từng nhảy dù xuống Kim Lộng, giúp huấn
luyện khoảng 100 "bộ đội Việt-Mỹ" và cứu Hồ thoát khỏi cơn bệnh mười
chết một sống. Thomas còn hành xử như Ban Ngoại Giao của Hồ, chuyển ra
ngoài lập trường kháng Nhật và tranh đấu cho độc lập của Việt Minh. Việc
cơ quan tình báo Mỹ và Trung Hoa chấp thuận sử dụng Việt Minh để thu
thập tin tình báo về Nhật còn tạo cho Việt Minh sức mạnh tinh thần và
một vũ khí tuyên truyền sắc bén.(11)
***
Tháng 8/1945, sau khi Nhật
đầu hàng, nhóm Trương Tử Anh mưu cướp chính quyền Hà Nội, nhưng không
thành công. Ngày 18-19/8, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội. Chỉ trong
vòng 10 ngày kế tiếp, hầu hết các tỉnh đã ngả theo Việt Minh. Ngày
25/8, Bảo Đại chấp thuận thoái vị. Ngày 2/9/1945, Hồ tuyên bố độc lập ở
Hà Nội. Trong giai đoạn mà Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ mệnh danh là "cắt tiết,
mổ bụng" này, khó thể kể xiết những thủ đoạn Việt Minh nhằm trung lập
hóa và tiêu diệt đối thủ, thực hay giả. Cán bộ CS bắt chước rất thành
thạo các thủ thuật của thực dân Pháp, đó là vu cáo nạn nhân của họ bằng
những tội hình sự như trộm cắp, hiếp dâm, hay gây rối loạn trật tự công
cộng. Khi được chất vấn, Trần Huy Liệu thản nhiên trả lời báo chí: tất
cả những người bị bắt giữ đều nguy hại cho chính quyền. Năm ngày sau,
HCM ký sắc lệnh cho phép bắt giữ và cô lập bất cứ ai nguy hiểm cho chế
độ. (12)
*
Thực tế, HCM và thuộc hạ quan tâm đặc biệt đến VNQDĐ và
Đại Việt. Giáp cho lệnh tấn công một số căn cứ Đại Việt ở Phúc Yên và
Sơn Tây. Ba ngày sau lời hiệu triệu đoàn kết, Giáp ký sắc lệnh giải tán
Đại Việt Quốc Gia Xã Hội Đảng và Đại Việt QDĐ, hiệu lực từ ngày
5/9/1945. Ngày 12/9, Giáp đặt ra ngoài vòng pháp luật Việt Nam Thanh
Niên Ái Quốc Hội của Võ Văn Cầm tại Hà Đông, và Thanh Niên Hưng Quốc của
Lê Ngọc Vũ. Thanh trừng diễn ra khắp ba kỳ. Hầu hết chính khách tên
tuổi bị tắm máu, với tội danh chung chung là "Việt Gian, phản động."
Trường Chinh, Tổng thư ký Đảng CSĐD không dấu ác tính của mình qua những
bài báo trên Cờ Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Đảng CSĐD. "Nhân tài
quí thật," Trường Chinh viết, nhưng nếu cần cũng phải thẳng tay triệt hạ
đi, đó mới là đại đoàn kết thực sự. (13)
Ngoài ra, Ban Thường vụ
Đảng CS qui nạp thêm vào Việt Nam Dân Chủ Đảng, một số trí thức trung
lập, đặc biệt là nhóm Thanh Nghị. Khả năng và uy tín của nhóm luật gia
này được khai thác tối đa trong lãnh vực dân vận, đặc biệt là hai cơ
quan ngôn luận Độc Lập và La République. Vũ Đình Hoè và Dương Đức Hiền
cũng được chia hai ghế trong chính phủ lâm thời đầu tiên.
***
Nghị
quyết Hội nghị toàn quốc Đảng CSĐD (14-15/8/1945) ngày 15/8, ngoài việc
vận động các giới và đảng phái thành lập "bạn Việt Minh," "Quan trường
yêu nước," "Việt Nam viên chức cứu quốc hội," còn có ý tái lập VNQDĐ với
những cán bộ đã theo Cộng Sản và giúp đỡ Việt Nam Dân Chủ Đảng. Ngày
18/8, Dương Đức Hiền thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng ở Hà Nội với
Trần Đình Long làm Cố vấn. Cán bộ CS còn móc nối Phan Kế Toại, qua con
Toản, Phan Tư Nghĩa, và Phan Anh, qua Phan Mỹ. Kế hoạch tái lập VNQDĐ
chưa kịp thực hiện thì quốc quân Trung Hoa đã nhập Việt, mang theo hai
cánh tiền tiêu VNQDĐ từ Vân Nam, và Việt Cách từ Liễu Châu (Quảng Tây).
(14)
Cuộc tranh chấp quyền lực chưa ngã ngũ. Về số lượng, phe
chống Cộng rất đông đảo. Lực lượng Việt Cách của Vũ Kim Thành từng tấn
công Móng Cái trong mùa Hè 1945. Những đơn vị tiền tiêu Việt Cách tiến
sát biên giới, dưới quyền chỉ huy của Bồ Xuân Luật, Trương Trung Phụng.
Khoảng 2,000 VNQDĐ cũng ở sát biên giới Lào Cai và Hà Giang.
Mặc
dù sau này tài liệu tuyên truyền Pháp và CSVN trình diện quốc quân Trung
Hoa dưới góc cạnh xấu xí nhất–như tai hại hơn bom nguyên tử–ở thời điểm
này, hơn 150,000 quốc quân Trung Hoa phần nào giúp một số cán bộ Đại
Việt và VNQDĐ thoát cảnh cắt tiết, mổ bụng, hay "mò tôm" trong tay những
kẻ kiêu hãnh lấy sự giết người làm thành tích cách mạng. Phe chống
Cộng–nhờ thế tựa quốc quân TH–tăng gia hoạt động. Họ không chỉ chống
Cộng mà còn chống cả Pháp. Tháng 9/1945, Hoàng Đạo tái tổ chức Đại Việt
Dân Chính, xuất bản Việt Nam Thời Báo. Tháng 2/1946, Đại Việt hợp nhất
với VNQDĐ, được giao tổ chức chiến khu Vĩnh Yên (Khu 3).
*
Những
cuộc bạo động và công kích trên báo chí giữa Việt Minh và liên minh
VNQDĐ-Đồng Minh Hội diễn ra hàng ngày. Tại Hà Nội, phe VNQDĐ-Đồng Minh
Hội thành lập được khu tự trị tại vùng Quan-Thánh/Ngũ Xã, mở trận chiến
tuyên truyền chống Việt Minh, tố cáo gốc Cộng Sản của Hồ cùng các tay
chân thân tín. Khái Hưng và các chiến hữu sử dụng vũ khí sở hữu–tức ngòi
bút và lương tâm mình–không ngừng đả kích, mỉa mai các lãnh tụ Cộng
Sản. Nhân Tết Trung Thu, báo Trẻ Em [Bình Minh], từng viết về tuổi ấu
thơ ưa ném sấu, chèo me, đánh đinh, đánh đáo của HCM. Hai tờ Việt Nam và
Đồng Minh nhấn mạnh đặc tính Vẹm tức giảo hoạt, dối trá viết tắt từ tên
Việt Minh [VM]. Dưới bút hiệu "Chàng Lẩn Thẩn," Khái Hưng viết những
bài phiếm luận trên Việt Nam (9/1945) khiến cán bộ CS và thành phần "hoe
hoe" thân Việt Minh không khỏi nhức đầu. Các toán cảm tử VNQDĐ cũng
chống lại chiến dịch khủng bố của Việt Minh bằng cách ám sát "Ba" [Đại
úy Nguyễn Văn] Viên, một "đảng viên" phản bội, mưu sát Bồ Xuân Luật, bắt
cóc Trương Trung Phụng, một lãnh tụ Đồng Minh Hội. Có lần, VNQDĐ còn
bắt cóc được Võ Nguyên Giáp. Trần Đình Long bị bắt cóc rồi thủ tiêu đầu
năm 1946. (15)
Phe Việt Minh, qua các tờ Cứu Quốc và Độc Lập ra
sức phản công. Nhưng như trong bất cứ cuộc mưu bá đồ vương nào, luật kẻ
mạnh thống trị. Quân đội Việt Minh thiện chiến hơn Việt Quốc hay Việt
Cách. Cán bộ Việt Minh kiểm soát hầu hết nông thôn và khu vực ven tỉnh
thị. Đáng sợ hơn nữa, Hồ là một lãnh tụ kinh nghiệm về chính trị và
ngoại giao. Lên cầm quyền khi ngân quĩ hầu như trống rỗng, cán bộ CS các
cấp hô hào và ép buộc dân chúng "đóng góp" vàng bạc qua Quĩ Độc Lập,
hay các Tuần lễ Vàng, Tuần lễ Văn Hóa, v.. v... để tiêu dùng và hối lộ
quan tướng Trung Hoa, nhất là Lư Hán, Tiêu Văn, Chu Phúc Thành, v..
v.... Cuối năm 1949, Lê Văn Hiến còn giữ được số vàng lấy từ cung điện
Nguyễn và các cuộc thu góp trong năm 1945-1946, nấu thành vàng ròng,
chuẩn bị cho một đợt "ngoại giao hối lộ" khác.
***
Đối diện viễn
tượng có thể bị tiêu diệt trong tay Quốc quân Trung Hoa, từ tháng
11/1945, Hồ bắt đầu mềm dẻo hơn. Hành động độc đáo nhất của Hồ là giải
tán Đảng CSĐD–một quyết định đến nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức.
Theo Cờ Giải Phóng, cơ quan ngôn luận của Đảng CSĐD, Ban Chấp hành trung
ương Đảng họp ngày 5/11/1945, "nghị quyết tự động giải tán Đảng Cộng
Sản Đông Dương từ ngày 11/11/1945. Những tín đồ của Chủ nghĩa CS muốn
tiến hành việc nghiên cứu chủ nghĩa sẽ gia nhập Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa
Mã Khắc Tư [Marxist] ở Đông Dương." Trường Chinh–người chống đối việc
giải tán Đảng–được cử làm Tổng Thư ký. (16)
Động cơ của việc giải
tán Đảng CSĐD thường được biết như tránh bị quốc quân Trung Hoa tiêu
diệt, giải tỏa sự nghi ngờ của dư luận quốc tế, đặc biệt là Liên bang
Mỹ, và "đoàn kết tinh thành" với các phe nhóm để bảo vệ độc lập, tự do.
Hoàng Tùng (Trần Thọ)–cựu Bí thư Hải Phòng, rồi chánh văn phòng của
Trường Chinh, Tổng biên tập báo Nhân Dân–cho rằng Đảng CSĐD chỉ muốn
"đánh lừa" phe tư sản; nhưng địch không bị lừa, mà chính "phe ta" (Nga
và CS Pháp) nghi ngờ, nên không ủng hộ VNDCCH trong giai đoạn 1946-1949.
Nếu tin được Linh mục/Cao ủy d’Argenlieu, chiều ngày 22/2/1946, Maurice
Thorez từng khuyến khích Cao Ủy Đông Dương: "Quốc kỳ của chúng ta trên
hết! Vậy nếu cần đánh, cứ đánh, nện cho nặng vào." (17) Theo một cựu
nhân viên ngoại giao Hungary, mùa Thu 1950, Thorez tuyên bố cuộc cách
mạng 1945 của HCM đi ngược với chính sách của Stalin: Stalin muốn Đảng
CS Pháp cướp chính quyền trước, và tuyên bố cho VN độc lập sau. Stalin
không tin tưởng Hồ: Hợp tác quá lộ liễu với tình báo Bri-tên và OSS Mỹ,
giải tán Đảng CSĐD, không tham khảo ý kiến Stalin. (18) Tình báo Pháp
cũng ghi nhận quyết định giải tán Đảng CSĐD của Hồ tạo nên sự bất mãn và
nghi ngờ của Văn phòng Ban Phương Đông [Dalburo] Thượng Hải, đưa đến
những cáo buộc như "bán mình cho đế quốc," "phản bội" dân tộc Việt Nam
và giai cấp công nhân vào mùa Hè 1946. Vẫn theo tình báo Pháp, tháng
9/1946, Dalburo Thượng Hải còn gửi phái đoàn bí mật qua Hà Nội để điều
tra về quyết định rất "phản động" trên. (19)
Nhưng để hiểu rõ hơn
quyết định lịch sử này, không thể không xét lại kinh nghiệm cá nhân của
HCM trước ngày lên cầm quyền. Sự tiếp cận với chủ thuyết Cộng Sản của
HCM, cần nhấn mạnh, không do sự quyến rũ hay thâm sâu của
Marxist-Leninism–một hình thái Nga hóa sơ khởi thuyết Karl Marx–mà ngày
đó HCM chưa nghiên cứu kỹ lưỡng. Hồ đã đến với Đảng Cộng Sản Pháp và rồi
Đệ Tam QTCS từ năm 1921-1924 phần lớn vì thời điểm này chỉ có Mat-cơ-va
bày tỏ thiện cảm với các nước bị Tây phương xâm chiếm, gọi chung là các
nước thuộc địa hay bán thuộc địa. Hồ nhiều hơn một lần, khẳng định điểm
này.
Dĩ nhiên, chủ nghĩa Cộng Sản tự nó có sức quyến rũ của một
thứ giả tôn giáo (pseudo-religion), chẳng xa lạ với Đông phương: đó là
lấy tài sản phi nghĩa của tham quan, ô lại, hay cường hào, ác bá (kẻ
giàu có, gian ác), chia cho đám đông đói khổ. Những anh hùng/tướng cướp
phổ thông trong dân gian tại Trung Hoa hay Việt Nam là 108 anh hùng
Lương Sơn Bạc (Thủy Hử), Nguyễn Nhạc hay Đơn Hùng Tín. Và viễn tượng của
một xã hội cộng sản, đại đồng–ở đó mỗi người hưởng theo nhu cầu, làm
theo khả năng; nhà nước tức guồng máy thư lại tự tan biến đi [withering
away] mà Marx hay Engels hoang tưởng đã từng hiện hữu trong các xã hội
nguyên thủy, dù chẳng hề hoặc chưa được chứng nghiệm–mang sức quyến rũ
chẳng kém gì cõi thiên đường sau khi chết của các tôn giáo Đông Tây.
(20)
***
Nhưng vào đường hoạt động, HCM dần dần khám phá ra sự thực
phũ phàng ở hậu trường sân khấu. Quốc gia nào cũng có quyền lợi tư riêng
ẩn dấu sau những chiêu bài truyền đơn, khẩu hiệu đẹp đẽ. Việc khai tử
bí danh Nguyễn Ái Quốc tại Mat-scơ-va vào mùa Hè 1932 (và dưới chính
ngòi bút của Thống đốc Hong Kong ngày 19/1/1933, vì "ho lao và nghiện
thuốc phiện")–tám năm ăn không ngồi rồi, chẳng được giao nhiệm vụ nào vì
đã lầm lỗi khai sinh Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 6/1/1930–viết nên
những tài liệu bị chính đồng chí mình tại Đại học Phương Đông chỉ trích
là nặng tinh thần cải lương quốc gia, đầu cơ–không được ra công khai với
những vợ con cách mạng, v.. v...– lời tuyên bố tâm đắc của Hồ, "Tôi
thuộc Đảng Việt Nam," lý lịch tự khai "Đảng Quốc Gia" khi công bố danh
sách chính phủ lâm thời vào ngày 2/9/1945, hay tranh cử Quốc Hội năm
1946, cần được hiểu dưới ánh sáng lịch sử khách quan hơn lý luận giáo
điều hay những lời nguyền rủa, chỉ trích đầy xúc động.
Quyết định
giải tán QTCS của Josef V. STALIN năm 1943 cũng ảnh hưởng trên quyết
định của Hồ. Từ ngày này, vì lý do sinh tồn, Hồ nghiên cứu Tam dân chủ
nghĩa của Tôn Dật Tiên và hệ thống chính trị dân chủ Mỹ. Không chỉ dịch
tác phẩm của Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch qua Việt ngữ cho cán bộ
học tập, Hồ dùng ngay câu mở đầu của Bản Tuyên ngôn độc lập Mỹ để bắt
đầu Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 của mình. Ngày 13/9/1946, Hồ còn
khẳng định với nhân viên ngoại giao Mỹ tại Paris mình không phải là Cộng
Sản. Và tại Hội trường Nhà Hát lớn Hà Nội ngày 3/11/1946, Hồ thêm một
lần nhấn mạnh câu "Tôi thuộc Đảng Việt Nam." Nhưng tình báo Mỹ vẫn tin
Hồ là tay Cộng Sản lão luyện, và Đông Dương không có vị thế chiến lược
cao nên chính phủ Harry Truman (1945-1953) quyết định "hands-off" (không
can thiệp). (21) D’Argenlieu và cơ quan tuyên truyền Pháp không ngừng
khoét sâu sự nghi ngờ của Mỹ hay Trung Hoa về gốc gác QTCS của Hồ. Thảm
kịch Việt Nam trong hạ bán thế kỷ XX phần nào khởi phát từ những thành
kiến [perceptions] trên.
***
Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược
lại, kết luận khả tín là Hồ chỉ "tả khuynh" và tìm đến nước Nga xin cầu
viện đánh thực dân Pháp giành độc lập hơn thành tâm tin tưởng ở thuyết
Marxist-Lennism hay Stalinism. Điều đó không có nghĩa Hồ không bị ảnh
hưởng bởi lý luận duy vật biện chứng và phương cách tổ chức một đảng
chính trị, cùng kiểu mẫu chính quyền Liên Sô Nga.
Dưới áp lực
Trung Hoa và Pháp, Hồ còn phải dàn xếp với các tổ chức thân Trung Hoa,
chống Cộng, để thành lập một chính phủ liên hiệp. Sau khi Hồ tuyên bố
giải tán Đảng CSĐD, từ ngày 24/11/1945, Tiêu Văn áp lực ba phe Việt
Minh, Việt Cách và VNQDĐ ngồi lại thành lập chính phủ Liên hiệp, và bầu
cử Quốc Hội để ký Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946, giúp quốc quân Trung Hoa an
tâm nhường miền Bắc vĩ tuyến 16 cho Pháp. Dù các đơn vị Phục Quốc trên
thực tế chiếm đóng một số địa điểm ở duyên hải vào cuối tháng 2/1946,
HCM vẫn triệu tập Quốc Hội, công bố chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến ngày
2/3/1946. (22) Để chứng tỏ tinh thần đoàn kết của mình, HCM còn yêu cầu
Quốc Hội nghiên cứu và biểu quyết việc lựa chọn một quốc kỳ khác. (23)
Vì lý do nào đó, Khái Hưng không được cử làm đại biểu Quốc Hội năm
1946, trong khi cả ba anh em Nguyễn Tường Tam, Tường Long, Tường Bách
đều được tặng ghế.
Phần vì tình trạng lụt lội, Nguyễn Tường Tam về
tới Hà Nội ngày 12/1/1946, vừa là lãnh tụ Đại Việt Dân Chính, vừa là
VNQDĐ. Định xuất bản báo Dân Chính, nhưng rồi trở thành Chủ bút báo Đồng
Minh của Việt Cách. Ngày 21/2, Tường Tam làm Ủy viên Ngoại giao của
VNQDĐ. Vì áp lực Trung Hoa, Tường Tam miễn cưỡng nhận chức Bộ trưởng
Ngoại Giao, tháp tùng HCM ra Vịnh Hạ Long gặp d’Argenlieu và tham dự Hội
nghị trù bị Đà Lạt. Nhưng sau khi HCM lên đường qua Pháp, Tường Tam lại
"mất tích." (24)
Phần Nguyễn Tường Long phụ trách tổ chức các
chiến khu Vĩnh Yên, Yên Bái, Lào Cai dưới quyền Vũ Hồng Khanh. Nhưng sau
ngày quân Trung Hoa triệt thoái, tình thế phe chống Cộng ngày một tuyệt
vọng. Từ tháng 6/1946, Việt Minh thanh toán dần các căn cứ VNQDĐ. Trong
hồi ký gần cuối đời, Y sĩ Nguyễn Tường Bách ghi nhận:
Tôi gặp
anh Lê, người cầm đầu Bộ chỉ huy [chiến khu 3 tại Vĩnh Yên] lúc đó. Sau
bữa cơm rau dưa thanh đạm với anh em, chúng tôi đi dạo trong thành phố
và ra cả ngoài thị trấn nhưng không thể đi xa được nhiều vì chung quanh
làng mạc đều do Việt Minh kiểm soát. Có cách nào để phát triển ra vùng
nông thôn? Anh Lê cũng chịu bó tay vì không có người biết cách tuyên
truyền nông dân. Mà dùng võ lực thì chỉ có vài chục tay súng. Muốn giữ
vững thị trấn cũng đủ hụt hơn rồi. Tất cả anh em, kể cả đảng viên và các
anh em khác, không quá vài trăm người. Về tài chánh lại quá eo hẹp.
Quân đội chủ yếu do đám lính khố xanh cũ hợp thành. . .( 25)
***
Tháng 7/1946, Nguyễn Tường Long phải rút lên Yên Bái. Ít lâu sau, chạy
qua Côn Minh, sau vụ thảm sát cán bộ huấn luyện Nhật của trường Lục quân
Trần Quốc Tuấn ở gần Hồ Kiều, cây cầu biên giới qua Hà Khẩu (Vân Nam).
(26)
Trong khi đó, với sự tiếp tay của Huỳnh Thúc Kháng và Vũ
Trọng Khánh, Việt Minh phát động hàng loạt những cuộc thanh trừng phe
chống Cộng. Giáp còn mở những phiên tòa hình sự, xét xử các đối thủ
chính trị qua những tội danh tưởng tượng như trộm cắp, hiếp dâm. Ngay
tại Hà Nội, số phận cán bộ VNQDĐ không kịp thoát thân cực kỳ bi thảm,
thường được biết như "vụ án Ôn Như Hầu." Những người cầm đầu công an
Việt Minh–kể cả Bùi Đức Minh–vu cáo VNQDĐ mưu toan bắt tay Pháp làm đảo
chính đúng ngày Quốc Khánh Pháp (14/7/1946). Sau đó, trong hai ngày
12-13/7, tấn công vào các trụ sở VNQDĐ khắp nơi, đặc biệt là trụ sở số 7
Ôn Như Hầu [nay là Nguyễn Gia Thiều], bắt giữ Dân biểu Phan Kích Nam,
rồi ngụy tạo ra vũ khí, dụng cụ tra tấn và "7 tử thi" để bôi nhọ Việt
Quốc đã bắt cóc, giết người, cướp của. Ngày 16/7, Thúc Kháng họp báo,
bênh vực việc làm của Giáp và Việt Minh, đả kích VNQDĐ nặng nề. (27)
***
Cuối tháng 10/1946, tại phiên họp Quốc Hội thứ hai, Tiến sĩ Kháng phái
biểu "Lỗi tại tôi," nhưng không nói thêm được điều gì. Cù Huy Cận đại
diện Bộ Nội Vụ tuyên bố: Các đại biểu VNQDĐ như Lê Ninh, Hoàng Ngọc
Bách, Phan Kích Nam, Vũ Đình Tri trực hay gián tiếp nhúng tay vào những
vụ tống tiền như vụ án Ôn Như Hầu. Bùi Vĩnh Liên ghi tên định hỏi về
việc 6 đảng viên QDĐ bị bắt, nhưng cuối cùng cũng đổi đề tài. (28)
Phần Khái Hưng, chẳng hiểu tại sao không xuất ngoại. Sau ngày
19/12/1946, Việt Minh lại phát động đợt thanh trừng mới, vì anh em
Nguyễn Tường Tam ở Hoa Nam đang vận động thành lập một chính phủ chống
Cộng. Tại miền Trung, Việt Minh bắt giữ một số lớn cán bộ VNQDĐ như Phan
Trung Thuyết (Liên Hiệp Quốc Dân), Trần Thanh Mại, Ngô Han (?), Bửu
Viêm, Nguyễn Khoa Phong v.. v... Võ Như Nguyện và Nguyễn Đôn Duyến chạy
thoát. Bửu Hiệp [Hạp?] cùng Nguyễn Khoa Toàn, Ưng Du, Tôn Thất Tu
(?),Nguyễn Đôn Duyến và Võ Như Nguyện hoạt động dưới chiêu bài VNQDĐ.
Nguyện ra Hà Nội nhưng không liên lạc đựợc với Tường Tam. Tại Lào Cai,
các khóa sinh trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn bị vây hãm, tấn công liên
tục, phải vượt qua biên giới. (29)
***
Rất ít thông tin khả tín về
những ngày cuối đời Khái Hưng được bạch hóa. Có tin từ Hà Nội về Nam
Định, Khái Hưng bị VM bắt giam tại Liên Khu III (Lạc Quần, Trực Ninh).
Rồi thủ tiêu ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường cuối năm 1946 hay 1947.
(30)
Cái chết bi thảm, uẩn ức của người trí thức và văn nghệ sĩ Khái
Hưng mới chỉ là nửa sự thực lịch sử trong cuộc Tam Thập Niên Chiến
(1945-1975). Ở phía đối diện–tức phe Quốc Gia hay Cộng Hòa–cũng chẳng
vui vẻ gì hơn. Biết bao người chết tối tăm từ Thừa Phủ tới Côn Đảo, từ
các trung tâm thẩm vấn Mật Thám Pháp tới Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia.
Ngọn lửa sinh đăng cúng dường Phật pháp của Thượng tọa Quảng Đức
(11/6/1963) chỉ là một bằng chứng của bạo lực "cách mạng Nhân Vị." Cái
chết tự nguyện của Nhất Linh ngày 8/7/1963–không chấp nhận cho thứ công
lý Ki-tô Trung cổ của chế độ Ngô Đình Diệm (1954-1963) xét xử mình–là
một chứng từ khác.
Trong di chúc, Nhất Linh viết:
"Đời tôi có
lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các
phần tử đối lập Quốc Gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay Cộng
Sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa thượng Thích Quảng
Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do." (31)
Bản di chúc của người đã dâng trọn đời mình cho đất nước–cũng một nhà
văn tài hoa, cựu thủ lĩnh Tự Lực Văn Đoàn–hiệu nghiệm như lời tiên tri.
Cái chết trong lòng Thiết Vận Xa của Diệm-Nhu sáng ngày 2/11/1963, cuộc
hành hình Cẩn trong khám Chí Hòa ngày 9/5/1964, hay cái chết điên loạn
của Thục năm 1984 tại Missouri, chỉ là hậu quả những tội ác chiến tranh
và diệt chủng (theo công pháp quốc tế) của họ Ngô. Nhưng còn đó, nỗi cay
đắng, chua sót của giới trí thức một quốc gia nhược tiểu đang bị chao
đảo, rúng động từ rễ gốc bởi hai trào lưu ý thức hệ Tây phương–đen và
đỏ–cùng cơn điên cuồng tập thể của bầy âm binh chịu phù phép trong tay
áo những phù thủy, trên sạn đạo đi tìm tự do, dân chủ và một tương lai
đáng sống hơn cho dân tộc mình.
NGUYÊN VŨ
Houston, mùa Đông 2008-2009
Nguồn: TẠP CHÍ HỢP LƯU Số 104
PHỤ CHÚ:
1. Tài liệu Việt ghi Nguyễn Tường Tam sinh năm 1905, về nước năm 1930
hay 1931, và dạy học tại trường Thăng Long. Theo ông Nguyễn Tường Thiết,
trên căn cước thiết lập năm 1951, sau khi thân phụ ông từ TH trở về,
ghi ngày sinh 1/2/1906. (Phỏng vấn ngày 5/1/2009). Bản tiểu sử do an
ninh Pháp lập năm 1946, ghi Tường Tam sinh ngày 1/2/1908 tại Cẩm Giàng,
Hải Dương, du học tại Pháp từ 1930 tới 1936, đậu Cử nhân Vật lý. Về
nước, làm Lục sự Toà án Hà Nội. Chủ trương Tự lực Văn đoàn. Năm 1940, bỏ
việc, làm báo và xuất bản. Thành lập Đại Việt Dân Chính; CAOM (Aix),
GGI, 14 PA [Hồ sơ Decoux], c. 2. Đáng lưu ý là tài liệu Pháp trong năm
1946 về các lãnh đạo Việt, vì lý do nào đó, có nhiều hoang tưởng. Võ
Nguyên Giáp, chẳng hạn, được phong làm Khoa trưởng trường Luật Hà Nội
năm 1937, từng qua Nga huấn luyện trong thời gian 1939-1940, rồi gặp Hồ ở
Trung Hoa, gia nhập Việt Minh, về nước năm 1944; Amiral Thierry
d’Argenlieu, Chronique d’Indochine, 1945-1947 (Paris: Albin Michel,
1985), tr. 254 (dẫn tin tình báo ngày 11/4/1946). Võ Giáp tốt nghiệp năm
thứ hai luật [chương trình 3 năm].
2. Vũ Đình Hoè, Hồi ký Vũ Đình
Hoè (Hà Nội: 2004), 63-64, 692. Xem thêm nhận xét về sự đổi mới văn
chương, thời trang phụ nữ và tranh hoạt kê (Lý Toét-Xã Xệ) của nhóm Tự
Lực Văn Đoàn trong Nguyễn Xuân Chữ, Hồi Ký (Houston: Văn Hóa, 1996), tr.
210-212.
3. Trần Phước An (1898-1943) sinh vào khoảng từ 1895 tới
1898 tại Tường Lộc, Vĩnh Long. 1906, du học Nhật trong phong trào Đông
Độ. 29/11/1933, tham dự Đại Hội thanh niên (Seinen Kyodan) do Nhật bảo
trợ với tư cách đại diện An-Nam; CAOM (Aix), Amiraux [GGI], 42469.
1937-1943, sĩ quan trong quân đội Hoàng Gia Nhật. 1939, trung ủy Việt
Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội [Phục Quốc]. 12/8/1940, được Cường Để ủy lập
Kiến Quốc Quân, với sự phụ tá của Trần Trung Lập và Hoàng Lương; Cuộc
đời cách mạng Cường Để, 1957:134. Tháng 9/1940, Kiến Quốc Quân tiến vào
Lạng Sơn. 10/1940, cùng Koike giúp Tường Tam thoát qua Quảng Châu.
6/10/1941, Bộ trưởng Thuộc Địa Charles Platon yêu cầu Bộ Ngoại giao phản
đối Nhật về những hành động của An. 22/7/1943, bị ám sát ở Quảng Châu.
Tường Tam tự nhận sai người giết An; CAOM (Aix), GGI, 7F29 (2), tr.1.
4. Theo Lê Tùng Sơn, Hồ đưa ra ý kết nạp Nhất Linh với hy vọng lôi kéo
nhóm Tự Lực Văn Đoàn; Nhật ký một chặng đường (Hà Nội: 1978), tr. 140.
5. Vũ Đình Hoè, 2004:63-64, 692. Theo Giáo sư Hoè, đầu năm 1941, ông
nhắn tin cho Nhất Linh là chỉ chú tâm vào báo Thanh Nghị, không chính
trị.
6. Cứu Quốc [CQ], 12/9/1945; SHAT (Vincennes), 10H. Các cán
bộ Duy Dân thường hoạt động bí mật. Vì thế không thiếu người mạo xưng
là đảng viên Duy Dân, kể cả một cựu Trưởng ty Công An Nam Định, từng bị
cách chức vì bắt các tăng ni Phật giáo làm tình trong khi tra tấn lấy
khẩu cung năm 1952. (Theo tài liệu gia đình Nhất Linh, "Duy Dân" là một
học thuyết chống Cộng của một nhóm năm người, do Lý Đông A mang vào nội
địa, để thành lập một Mặt trận chống Cộng)
7. Trương Tử Anh
(1917-1946) sinh tại Tuy Hòa, Phú Yên. Còn có tên khác là Trương Khán.
Con Trương Bội Hoàng và Nguyễn Thị Miên. Năm 1940, học sinh tư thục ở Hà
Nội. Thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng. Ngày 4/10/1941, bị Pháp bắt, đưa
đi tập trung. Tháng 7/1942, được phóng thích, quản thúc ở miền Trung.
Tháng 1/1943, trốn ra Bắc. Ngày 21/7/1944, Thống sứ Bắc Kỳ cho lệnh bắt,
Tử Anh tuyệt thực phản đối. Nhật lại can thiệp, phải trả tự do. Ngày
2/9/1944, trốn khỏi nhà thương René Robin (Hà Nội). Tháng 3/1945, tái
xuất hiện ở Hà Nội; CAOM (Aix), GGI, 7F 29.
8. Thông Tin, "Loại
tranh đấu" số 11, ngày Chủ Nhật, 10/6/1945, đăng hình Vũ Văn An, Vũ Đình
Dy, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ và Lê Toàn, với lời chú thích họ
thuộc "Ủy Ban Kiến Quốc," "lập nên để gánh vác việc kiến thiết nước Việt
Nam mới;" Vũ Ngự Chiêu, Phía bên kia cuộc cách mạng 1945: Đế quốc Việt
Nam (3-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996).
9. Tin Mới, 9/6/1945; Sài Gòn, 12/6/1945; Tin Tức, 30/7/1945; Hải Phòng, 31/7/1945; L’Opinion-Impartial, 1/8/1945.
10. Dân Chủ Đảng do Dương Đức Hiền, chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên, làm
Tổng thư ký. Giống như Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát với Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam sau này, Hiền chỉ giữ vai "phỗng đá," nhận lệnh
ra công khai ngày 30/6/1944. Chủ chốt là Pehznef Trần Đình Long
(1904-1946), từ Nga về năm 1931, được Văn phòng Đông Dương của Ban
Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản dự trù sẽ thay Lê Hồng Phong nếu có chuyện
bất trắc. "Báo cáo của LHP tại Đại Hội VII QTCS (15/1/1935);" Lê Hồng
Phong, 2002: 685 [685-697], & "Thư ngày 7/2/1932, Vera I. Vasilyeva
gửi Litvinov [LHP];" LHP, 2002:742-743. Cuối thập niên 1930, tham gia
mặt trận báo chí ở miền Bắc. Thực sự nắm Đảng Dân Chủ từ tháng 8/1945.
Nhân vật tích cực khác là Hoàng Minh Chính, Thư ký Đảng Đoàn Thanh Niên,
Lê Trọng Nghĩa (Đoàn Xuân Tín), cán bộ tình báo. Do đề cử của những
ngưới này, Hoè và Hiền được đại diện Đảng Dân Chủ trong chính phủ lâm
thời ngày 28/8/1945; Độc Lập, 4/9/1945; Vũ Đình Hoè, 2004:718, 795,
797-798. Đầu năm 1946, Long bị Việt Cách giết; Lê Tùng Sơn, 1978:186;
Anatoli A. Sokolov, Quốc Tế Cộng Sản và Việt Nam, bản dịch Đào Tuấn (Hà
Nội: CTQG, 1999), tr. 269-270.
11. Lê Tùng Sơn, 1978:110-112 [Mỹ
thả 2 đợt, gần 80,000 truyền đơn của Việt Minh xuống Hà Nội, Huế và Việt
Bắc]; René Defourneaux, "Secret Encounter with Ho Chi Minh;" Look (NY),
8/9/1966, tr. 32-33; Robert Sharplen, The Lost Revolution (NY: Harper
& Row, 1965), tr. 30; Báo cáo ngày 22/8/1945, William J. Donovan gửi
Byrnes; Bộ Quốc Phòng, US-Vietnam Relations, 1947-1967 (Washington, DC:
GPO, 1971), Bk I, C 58-59, 67; The Pentagon Papers (Gravel), vol. I,
pp. 17, 20, 50, 51; Lê Giản, "The Story of An Exile;" Vietnam Courrier,
1980:17-20; US Congress. Senate. Causes, Origins, and Lessons of the
Vietnam War. Hearings before the Committee on Foreign Relations, 92nd
Congress, 2nd Session, May 1972 (Washington: GPO, 1973), tr. 249;
Charles Fenn, Ho Chi Minh: A Biographical Introduction (New York: 1973),
71-75, 76-7, 78, 81; Archimedes L. Patti, Why Viet-Nam? Prelude to
America’s Albatros (Berkeley, Cal.: Univ of California Press, 1980), tr.
29-30, 46, 50, 51; 31; Tonnesson, Vietnamese Revolution, 238, 337
(quoted USNA ngày 19/3/1945); Chính Đạo, Hồ Chí Minh: Con người &
huyền thoại (Houston: Văn Hóa, 1993,1997), II, 1993:356; David G. Marr,
Vietnam 1945: The Quest for Power (Berkeley, Cal.: Univ. of California
Press, 1995), tr. 227-229, 241, 282-285, 288-291, 304n33, 476-479,
482-490, 498-501, 538-539; Raymond P. Girard, "City Man Helped to Train
Guerillas of Ho Chi Minh;" Evening Gazette (Worcester, MA), 14 &
15/5/1968; dẫn trong Marr, 1995:209n189; Phùng Thế Tài, Bác Hồ những kỷ
niệm không quên (Hà Nội: QĐND, 2002), tr. 57-63, 82-87;.
12. Cứu
Quốc [CQ], 12/9/1945; Cờ Giải Phóng, số 18, 20/9/1945; Dân Chủ (Hai
Phòng), 20/9/1945; Nguyễn Xuân Chữ, 1996:278, 280, 284-289; Hoàng Văn
Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng (Sài Gòn: 1971), tr. 254-255; Trần Huy Liệu,
Tài liệ
DƯƠNG NGHIỄM MẬU
Nhân nghĩ về Khái Hưng
Dương Nghiễm Mậu
Khái Hưng đã chết như thế nào? Từ rất lâu, mỗi lần gặp lại
tên Khái Hưng, tôi lại nghĩ đến điều đó và cùng lúc tôi vẫn muốn biết Khái
Hưng, cùng Tự-lực văn-đoàn,cũng như tất cả những người ở thế hệ Khái Hưng đã
làm cách mạng như thế nào, họ đã nghĩ gì, làm gì. Họ đã hoạt động trong giai
đoạn kháng chiến giải phóng dân tộc ra sao?
Tại sao Cộng sản thủ tiêu Khái Hưng? tôi nhớ câu thơ ấy của Thanh Tâm Tuyền. Khái Hưng đã bị
thủ tiêu, điều ấy đã chắc. Hồi còn nhỏ ở Hà-nội, đọc một tờ tuần báo vào
khoảng năm 1950 gì đó tôi có được thấy trong một thiên hồi ký, không nhớ tên
tác giả, không nhớ rõ tên thiên hồi ký, tôi chỉ nhớ thiên hồi ký mô tả lại
những ngày tù tội của các chiến sĩ quốc gia bị V.M. bắt giam, trong thiên hồi
ký có một đoạn tác giả cho biết đã gặp Khái Hưng trong một trại giam ở Việt
Bắc, tác giả cho biết lúc đó Khái Hưng ốm yếu, bị đi kiết vì bị hành hạ và
cuộc sống đầy ải của nhà tù, rồi Khái Hưng chết ở đây, những chiến sĩ quốc
gia, những bạn của Khái Hưng đã đẵn tre làm phên quấn xác Khái Hưng thay quan
tài và an táng trong một khu rừng ở Đại-từ, những điều này tôi nhớ mơ hồ lắm
và cùng đó hình như tác giả còn nói ngày Khái Hưng chết là 17-11 năm 1947.
Tôi không nhớ rõ, nhưng trí óc tôi còn mường tượng nên viết ra, nó không nhằm
cung cấp chính xác một tài liệu, mà tôi chỉ muốn ghi lại những điều mà trong
tâm tưởng tôi hai chữ Khái Hưng vẫn có lúc nhớ đến.
Trong thời gian làm tờ Văn Nghệ tại nhà in ở đường Cô Bắc
tình cờ tôi được nghe truyện về Khái Hưng, người nói chuyện giới thiệu là một
người cháu về đằng bà Khái Hưng, người này nói chính ông đã gặp Khái Hưng lần
cuối vào ngay buổi chiều cán bộ V.M. bắt Khái Hưng dẫn đi, bọn cán bộ này là
một thứ du kích tự vệ xã, Khái Hưng mặc quần áo thường, mang theo một chiếc
chăn dạ màu cứt ngựa, người kể truyện gặp Khái Hưng ở đầu làng, Khái Hưng có
nét mặt rầu rầu buồn bã mỉm cười và giơ tay chào. Sau đó, người nói chuyện
bảo dù rất kín, mấy tên du kích đã lộ ra rằng họ bỏ Khái Hưng vào bao bố đâm
chết rồi quăng xuống sông.
Không hiểu ngoài những điều mơ hồ, không có gì làm bằng
chứng kia, còn có những điều nào khác được kể về cái chết của Khái Hưng? Có
điều Khái Hưng đã chết. Khái Hưng đã chết thực và tác phẩm cuối cùng
của Khái Hưng -theo như ghi chép- để lại cho chúng ta là tác phẩm Băn
khoăn, trước khi Khái Hưng bước vào đoạn đường tranh đấu cách mạng cùng
các bạn, cùng toàn dân để giải phóng dân tộc và Khái Hưng đã chết trong cuộc
tranh đấu đó.
Nghĩ về cái chết của Khái Hưng, cùng lúc tôi nghĩ đến cái
chết khác của các chiến sĩ quốc gia kéo theo sự thất bại của những người quốc
gia trong lúc đối đầu với Cộng-sản, tôi muốn tìm hiểu và rút ra từ đó
những nguyên nhân đưa đến hoàn cảnh lịch sử đương thời mà với chúng tôi buộc
phải có trách nhiệm. Trở về khung cảnh, những hoạt động của sau năm 1901 khi
Đông-Kinh Nghĩa-thục phải ngưng hoạt động, sau năm 1924 chiến khu Yên-thế của
Hoàng Hoa Thám bị tan, sau năm 1930 Nguyễn Thái Học bị chết ở Yên-báy, Tự-lực
văn-đoàn với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ ...
hoạt động trên mặt trận báo chí, văn chương không phải chỉ là để làm báo, làm
văn chương, mà những công việc của nhóm đã chứng minh rõ, họ chỉ dùng văn
chương báo chí để hoạt động cách mạng, hay nói khác đi, nhẹ hơn, đúng hơn dùng
văn chương báo chí cho một vận động cải cách xã hội theo tinh thần
Tây-phương. Những gì đã được viết ra trên báo Phong Hóa, báo Ngày Nay, cùng
các tác phẩm đã minh chứng điều này. Sau bao nhiêu năm bế môn tỏa cảng, người
Tây-học, người trí thức mới của thế hệ 1930 đã nhận thấy sức mạnh của
Tây-phương, cụ thể là nền đô hộ của người Pháp, người trí thức mới nhận ra sự
bại trận, nô lệ của mình: xã hội ta lạc hậu, tinh thần Nho-giáo suy đồi, hủ
lậu, dân ta cực khổ thất học, với quá nhiều tệ đoan, mê tín. Họ thấy rõ muốn
thoát cảnh lệ thuộc trước hết phải nâng cao dân trí, cải cách xã hội. Và họ
đã làm. Các tác phẩm văn chương của Tự-lực văn-đoàn đã đóng một vai trò lớn
trong công việc này: mô tả tranh chấp mới cũ, đề cao đời sống mới. Trên căn
bản chấp nhận tinh thần tự do, dân quyền của những nhà tư tưởng đã làm thành
cuộc cách mạng tư sản 1789 của Pháp. Lý thuyết gia chỉ đạo của Tự-lực
văn-đoàn là Hoàng Đạo đã viết: Mười điều tâm niệm, Nhất Linh đã viết Đoạn
tuyệt, Khái Hưng đã viết Nửa chừng xuân. Trên phương diện xã hội
đã đưa ra phong trào Ánh Sáng. Sau cùng Tự-lực văn-đoàn thành đảng Hưng Việt
hoạt động cách mạng, kéo liền theo đó, Khái Hưng chết. Nhất Linh bỏ ghế bộ
trưởng chạy sang Tầu, Hoàng Đạo chết ở Tầu, Tú Mỡ, Thế Lữ ở lại với Cộng-sản,
còn một mình Nhất Linh bơ vơ, lạc lõng ở Miền Nam đề cao văn chương vượt thời
gian không gian, và với chính bản thân chọn cái chết chống lại chế độ
Ngô Đình Diệm.
Suốt một lịch sử kéo dào ba mươi năm, trong đó liên tiếp
20 năm chiến tranh trên quê hương chúng ta, nếu đổ tội cho cái vận nước mình
khốn khổ, khốn nạn thì không nói làm gì nữa, nhưng nói đến trách nhiệm của
những ai tự nhận như một chiến sỹ quốc gia thì chúng ta phải nhận chúng ta đã
thua, chúng ta phải chịu trách nhiệm nghiêm khắc với hiện tình, và từ đó phải
nhận định: từ những vận động của thế hệ 1930, qua cuộc kháng chiến giải phóng
dân tộc đến nay, cuộc cách mạng phải có của chúng ta vẫn chưa chấm dứt, vì
chúng ta vẫn chưa có một mẫu người mới, một xã hội mới được xây dựng trên một
ý thức hệ Việt mới. Có phải tôi đã nói lông bông lang bang, vì tôi đang viết
những gì về Khái Hưng không? Có thể phải mà cũng có thể không vì tôi đã nghĩ
đến nó khi nhớ lại những điều Khái Hưng đã viết, và cái chết của Khái Hưng để
lại cho tôi. Và vì tôi, chính tôi, đang có những vấn đề đặt ra: văn chương
với xã hội, văn chương với cách mạng, sự liên hệ của người cầm bút với xã
hội, quê hương và nhất nữa khi đặt mình là nhà văn tôi phải làm gì? Có văn
chương nghệ thuật thuần túy không?
Trong số các tác phẩm của Khái Hưng, cuốn được ghi cuối
cùng là Băn khoăn, cuốn sách hình như đã được viết ngay vào lúc đầu
những hoạt động cách mạng của tác giả cùng với lúc Nhất Linh viết cuốn Bướm
trắng. Tôi vẫn tự hỏi: tại sao giữa tác phẩm và đời sống tác giả lại
không có một chút liên hệ nào như vậy. Tại sao Nhất Linh và Khái Hưng lại
viết được hai tác phẩm thuần túy như thế vào giữa lúc họ bắt đầu hoạt động
cách mạng. Có thực Băn khoăn và Bướm trắng đã được viết lúc ấy
hay đã viết từ trước mà mãi lúc đó mới in ra?
Hơn nữa Nhất Linh đã viết Đôi bạn, và tôi nhớ có
đọc được một vài số báo nào đó Khái Hưng viết truyện Xiềng xích rõ
ràng là những tác phẩm liên can mật thiết đến tư tưởng và đời sống tác giả
trong xã hội đương thời ấy.
Có hai tác phẩm của Khái Hưng tôi lưu giữ mà với chủ quan
tôi cho là quan trọng và giá trị là Tiêu-sơn tráng sĩ và Băn khoăn.
Cuốn trên tôi thích có lẽ một phần vì nhân vật Phạm Thái, một nhân vật vừa là
chiến sĩ, vừa là tu sĩ, vừa là nghệ sĩ mà Khái Hưng đã làm sống lại được, còn
cuốn sau, tôi cho đó là một tiểu thuyết rất mới của thời đó, và cho đến bây
giờ nữa về nội dung đã cho tôi một phần nào lý do sự thất bại của những trí
thức mới trong giai đoạn lịch sử vừa qua.
Băn khoăn
của Khái Hưng muốn nói là "băn khoăn" của ai? Của Cảnh chăng? Cậu
sinh viên trường luật học giỏi đã hai mươi nhăm tuổi đang yên ổn học hành...
nhưng sang năm thứ ba một hôm như chợt lởn vởn trong đầu chàng câu hỏi:
"Học để làm gì, và đỗ để làm gì?" Rồi câu hỏi trở thành ám ảnh dòng
dã hàng tháng, ám ảnh kỳ cho tới khi nẩy ra câu trả lời mới thôi. Câu trả lời
ấy là: "Học để chẳng làm gì ráo. Đỗ cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho
tương lai của chàng." Rồi chàng lý luận ầm ỹ trong thâm tâm để tìm
nguyên tắc, quan niệm, ý nghĩa của sự sống, của đời mình. Luận lý cho tới lúc
đến một kết cục chán nản, đau đớn. sống không mục đích, đời là vô vị[1]. Cảnh không học nữa, và mới bắt
đầu một cuộc phiêu lưu, dấn mình vào cuộc sống chơi bời. "Muốn thì
được" Cảnh thường nói. Mà khi người ta giàu như Cảnh thì người ta lại
càng dễ được cái người ta muốn. Vì thế mà ngay đêm hôm ấy Cảnh đã trở nên tình
nhân người yêu của bạn. Khi đã phạm tội, hai người ngỏ với nhau những ý riêng
caủ mình rồi ôm nhau cười ngất.
Liên bảo Cảnh:
- Đối với bọn chúng ta chả còn cái gì chúng ta cho là
thiêng liêng nữa.
Cảnh lạnh lùng:
- Rõ em khéo nói kiểu cách!... Và ở cái thời gian khoa học
này, đến thần thánh cũng đã mất hết thiêng liêng đối với lòng tín ngưỡng
thành kính của người đời, thì còn cái gì đáng gọi là thiêng liêng nữa. Họa
chăng chỉ có cái tính xác thịt, cái thú vui hiện tại đáng gọi là thiêng liêng
cho một cái gì"[2]. Rồi Cảnh yêu Lan Hương, rồi yêu Hảo, ăn chơi, đánh bạc,
bán cả nhà của bố cho, sau chót bỏ đi, đi đâu, phải chăng đó là cái "băn
khoăn" Khái Hưng muốn nói?
Hay cái "băn khoăn" đó là cái "băn
khoăn" của ông Thanh Đức, xuất thân từ một gia đình buôn bán, cai thầu,
kinh doanh, và ông đi theo con đường ấy, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến tiền, đến
mỏ, đến đồn điền, cho ngay tới khi đang đánh bạc với một người tình mà ông đã
say đắm theo đuổi nghe nói đến cơ hội làm giàu cũng rũ áo đứng lên ngay.
Hoằng, người đang ngồi cùng chiếu bạc đã phê phán: "Kim tiền! Trời
ơi! Kim tiền! Kim tiền làm cho người ta quên hết ghét, yêu, thù, tức để chỉ
nghĩ đến nó, chỉ nhớ đến nó, chỉ chạy theo một nó. Kim tiền vạn tuế! Sống mãi
trong xã hội này, thì một ngày kia tôi điên thật."[3]
Chừng như với ông Thanh Đức tiền có thể mua được tất, mua người này một đêm,
mua người kia một đêm, mua nhà, mua mỏ, mua nhân nghĩa danh vọng. Như vậy ông
Thanh Đức "băn khoăn" cái gì, "băn khoăn" vì không lấy
được Hảo chăng?
Hay cái "băn khoăn" đó là "băn khoăn"
của Hảo, con gái độc nhất của bà án, giàu có, trẻ đẹp, 20 tuổi sống một cuộc
đời nhung lụa với bên cạnh vô số bậc thượng lưu trí thức, vô số thanh niên
tân học tán tỉnh, một người mà bố con Thanh Đức cùng yêu, cùng muốnchiếm đoạt
mà cuối cùng lại lấy một người khác. Phải chăng "băn khoăn" bày tỏ
tâm trạng lưỡng lự khi lực chọn trước vô số người trước mặt mình của Hảo?
Ba nhân vật Cảnh, ông Thanh Đức, cô Hảo là chính trong câu
chuyện "băn khoăn" của Khái Hưng. Thời gian của tác phẩm ngắn ngủi,
khởi đầu từ lúc có tin ông Thanh Đức muốn tục huyền cho tới khi cô Hảo, người
con gái mà ông Thanh Đức theo đuổi, báo tin lấy ông huyện Tô thì chấm dứt.
Khung cảnh xã hội "một đời nhiễu loạn, vô gia đình
giáo dục, vô gia đình luân lý"[4], đưa thanh niên đến nhận định "sinh ra ở đời để mà
sung sướng, để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở; để than phiền, hay để
theo đuổi một mục đích viển vông nào."[5]
Khung cảnh của một xã hội thượng lưu với rượu, với cà-phê rum ngây ngất, với
những canh bạc không nghĩ đến ăn thua; với một phút quyết định đã đủ phương
tiện để rời Hà-nội đi Sầm-sơn tắm biển, rồi từ Sầm-sơn đi Hải-phòng coi chớp
bóng, ngủ với gái, với sinh viên luật thấy chẳng cần phải thi đỗ, với bác sĩ
có bịnh viện giao cho người phụ trông nom, với những cô gái mà tất cả các bạn
đều là tình nhân chung chăn chung gối, chán người này đổi người khác, một xã
hội mà ngay trong đó đã có người phán xét... "thấy đám thanh niên
sống không mục đích, hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng lãng thì
em ghê sợ... cho họ quá, và tiếc cho họ nữa... Những bực thanh niên trí thức
như anh Đoan em mà chịu khó làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì... hay
biết bao, có ích cho đồng bào biết bao?"[6].
Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của Sagan
thời hậu chiến vô luân, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh
chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt đã có trong tác phẩm Khái
Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.
Trình bày câu chuyện Băn khoăn của Khái Hưng tới
đây, tôi ngưng lại để trở về nhận định tôi đã đưa ra: vì sao người trí thức
Tây-học đã thất bại trong giai đoạn vừa qua khi lãnh đạo tranh đấu.
Lớp trí thức mới sinh ra sai khi tinh thần Văn-Thân khởi
nghĩa đã hết, sau khi lớp trí thức Nho học đã tàn, và người Pháp đã mang văn
hóa Tây-phương vào đào tạo một lớp người mới. Từ tình thế lụn bại của tinh
thần quốc gia đó, người trí thức Tây-học chạy theo ngay, hạ bệ cái cũ một
cách tàn tệ, kịch liệt, và cái mới chói lòa trước mắt làm họ không nhìn thấy
gì nữa. Họ du nhập đơn phương, không lựa lọc, không nhìn chính vào mình. Họ
lên án nhà Nho câu nệ khuôn bó theo Khổng-học, thì chính họ lại bước theo con
đường đó để đến với Tây-học, và tạo ra một lớp trí thức mất gốc, rơi vào cái
thực trạng mà cuốn Băn khoăn của Khái Hưng đã phản ảnh. Với lớp người
như thế, với tư tưởng như thế, họ làm sao không thất bại, phải chăng, đó
chính là điều "băn khoăn" của Khái Hưng?
Lỗi lầm của lớp trí thứ Tây-học từ ngay lúc đầu đã gây ra,
đưa đến hiện trạng này, và ngày nay,lớp thanh niên mới,với bài học cũ của
lịch sử, đã nhận ra chưa trách nhiệm của mình từ ngay trên căn bản tư tưởng
trong cuộc dấn thân mà họ phải thực hiện. Hay họ đang tiếp tục đi trên con
đường mòn nối dài khi xưa mà họ cố tình làm ngơ như không biết?
Nhưng tôi vẫn tự hỏi: vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc
tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn khoăn? Không hề có
ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?
Dương Nghiễm Mậu
11-1964
Văn,
số 22, ngày 15-11-1964, trang 33-39
[1] Băn khoăn, Khái Hưng, bản
in lần thứ ba, Phượng Giang, Sài-gòn, 1958, trang 16
[2] Sách đã dẫn, trang 44.
[3] Sách đã dẫn, trang 268.
[4] Sách đã dẫn, trang 13.
[5] Sách đã dẫn, trang 50.
[6] Sách đã dẫn, trang 86.
© Copyright Mai Chi
VỀ THỤY AN
Có lần gặp chuyện, bố bảo :
- Có những người ôm nỗi oan khuất cả đời không giải được, mất mát của mình có đáng kể gì con.
Oan khuất có lẽ là thứ tàn phá tâm hồn con người ghê gớm, các chế độ phong kiến đều cho treo trống giải oan trước công đường.
Năm ấy, khi một người bạn đang ở nước ngoài là con nuôi bà Thụy An
nhờ mình đi tìm dấu tích bà những năm cuối đời, mình đến chùa Già Lam
nơi bà từng vào tu cho đến khi chết, nhưng hũ xương cốt của bà cũng thất
lạc, người trông co i ở đó lấy số điện
thoại và hứa sẽ báo ngay nếu có tin tức gì (nhưng giờ vẫn bặt âm vô
tín), sau đó ngồi với cụ Bàng Sỹ Nguyên nói chuyện về Nhân văn Giai phẩm
(ông biết rất rõ nội tình của vụ này), đắn đo mãi rồi mình quyết định
hỏi thẳng : - Bố thấy bà Thụy An là người thế nào ? Ông bật khóc liền, nước mắt ròng ròng :
- Chị An coi tôi như em trai, anh tôi (Bàng Bá Lân) cùng làm báo Đàn bà
với chị. “ (Con mụ)Thụy An như con rắn độc trườn tới hội nhà văn...” có
phải là của tôi đâu. Chỉ cần một mình chị ấy hiểu tôi là được rồi.
Mình nhẹ cả người nhưng cũng bàng hoàng, nỗi oan ôm trong lòng từng ấy
năm trời, sống, ăn, thở cùng nó, thật kinh khủng. Cũng chỉ biết im lặng
vì ông dặn : - Có những điều khi bố chết anh mới được nói ra. Có
thể có người cho rằng đó không phải là thái độ của kẻ sỹ, nhưng nếu
biết đó là hậu duệ cuối cùng của nhà Lý bị Trần Thủ Độ truy sát đến cùng
phải thay tên đổi họ đến vùng đất mới để sinh tồn, treo trước mặt 4 chữ
“Tự di triết mệnh” của người cha trao cho làm chỉ nam trong cuộc sống
thì có lẽ sẽ hiểu. Mà thôi, sao lại thanh minh nhỉ ? Mình vẫn thấy nuối
tiếc khi nhớ lại lần đó khi ông nói với bà xã : - Kiều, con có đồng ý cho cậu về Gò Công ở với bọn con không ? Cậu chỉ cần 20 mét vuông là đủ. Tất nhiên là mừng rồi, nhưng mình lại nói : - Bố để con báo cho Ái Thơ (con gái ông), rồi nó sẽ bay vào, chúng con sẽ đón bố về Gò Công. Nhưng rồi đâu có kịp làm. Thì ra ông cũng đã từng đến Gò Công, hôm rồi café với mấy anh văn nghệ GC (viết từ trước 75), anh S. kể :
- Năm 81, ông có về đây chơi đến nhà anh, có chi tiết làm anh nhớ mãi,
ông bảo : “Thưa ông, ông có nước nóng cho tôi xin một chậu ? Để tôi ngâm
chân”. Anh gật gù : - Hay thật, lạ thật, thì ra là giòng dõi hoàng gia.
Ps : Từ trước đến nay, kể cả trong các công trình nghiên cứu về NVGP,
người ta vẫn tin rằng việc bà Thụy An bị xử chung với nhóm (NVGP) dù bà
không hề liên quan là do bài báo “đánh” bà, ký tên Bàng Sỹ Nguyên. Theo
lời
cụ Bàng, bà An đáng lẽ không bị bắt, nhưng vẫn quyết định không để “anh em phải chịu nạn một mình”.
|