NÓI
LẠI...VỀ CHUYỆN TÂM LINH
Hôm trước (9/4/2014) tôi chuyển tiếp lên
trang facebook của tôi bài NGOẠI CẢM LÀ NGỤY KHOA HỌC (Phỏng vấn Đỗ Kiên
Cường) và nói là tôi rất tâm đắc bài này thì ngay hôm sau tôi nhận được bình luận
của bạn VŨ KIM nguyên văn như sau : “Tay Cường này tư duy duy vật máy móc,
không hiểu gì về tâm linh, ngoại cảm. Nó chưa chứng kiến nên nó không biết rằng
áp vong và ngoại cảm đem lại những thông tin kỳ diệu, những điều không thể bác
bỏ được.”. Tôi thấy cần nói thêm về đề tài “cực kỳ tế nhị” này đôi lời,
hoàn toàn không để tranh luận mà chỉ gợi thêm vài điều mắt tôi thấy và tai tôi
nghe...
Chuyện thì nhiều, chỉ xin kể vài chuyện và chia những chuyện này ra hai
loại : BÁC BỎ và ỦNG HỘ
1. BÁC
BỎ :
1)
Câu chuyện thứ nhất. Khoảng năm 1988, khi
tôi cùng gia đình sống ở Nhà A1- Khu Lắp ghép Trung Tự , một hôm anh Văn Vượng
(nổi tiếng với vai người nhạc sĩ mù trong phim “Hà Nội Trong Mắt Ai” của Trần
Văn Thủy) đến nhà tôi, năn nỉ tôi “giải thich” cho anh một chuyện “rất lạ”. Vượng
nói thêm đại ý : “Anh là người hiểu biết rộng và em biết anh cũng thích khám
phá mọi thứ. Anh phải đi với em và cho ý kiến...” Rồi anh Vượng
kể là có cậu học trò âm nhạc, đang học violon,
và gần đây cậu ta gặp một chuyện rất lạ. Nhà cậu ta có một phòng, nghe nói trước
kia đã có cô gái thắt cổ chết trong ấy. Gần đây cậu ta thấy có hiện tượng lạ,
là lúc ở chỗ khác thì lên dây đàn rất chính xác, nhưng hễ vào phòng ấy kéo đàn
thì lại dây lại “phô” (nghĩa là âm không còn chính xác). Thế nghĩa là sao ?”
Tôi từ chối, nói là những trường hợp “lạ” như thế tôi từng nghe đồn rất nhiều
và đã đến tận nơi kiểm tra, thì thấy đều là tưởng tượng... Nhưng Vượng cố năn nỉ.
“Nhưng lần này em cầu van anh. Nhà cậu ta
cũng gần nhà anh, ngay ở Hàng Bột.” Nể quá tôi đành thay quần áo, đi cùng
Vượng. Đến Hàng Bột, rẽ vào một ngõ, đến nhà, Vượng gõ cửa, thì một người đàn
ông ra mở, thấy tôi, chào : “Ôi, thầy Phòng ! Mời thầy vào chơi”. Tôi nhận ra
anh ta từng là học viên một lớp về nghệ thuật biểu diễn sân khấu tôi có đến giảng
mấy lần. Vào đến nhà, tôi kể chuyện Vượng nói và ngỏ ý muốn gặp “đương sự”. Chủ
nhà cho biết, đấy là con trai ông ta và tỏ ý rất tiếc là “cháu hiện không có
nhà, nếu thầy và chú Vượng có thể ngồi chơi chờ được thì tốt, vì em đoán cháu
không đi đâu lâu”. Tôi ngồi trò chuyện với chủ nhà và chờ. Quả nhiên lát sau cậu
bé (trạc 16-17 tuổi) về. Vượng trình bầy và bảo cậu bé thử. Cậu ta lấy đàn, lên
dây rồi vừa kéo vừa bước vào cái căn phòng “ma” kia, Lát sau, cậu ta nói : “Lạ thật, sao hôm nay cháu thấy dây cháu lên
thế nào vẫn thế, không phô đi
tí nào... Ông và thầy Vượng đành hôm khác đến đây vậy. Hôm nay “không ứng”.
Cháu không hiểu tại sao ...”
2)
Câu chuyện thứ hai. Vào thập niên 1990, số trinh sát viên Đại doàn 308 chúng
tôi đều đặn tụ họp theo tổ chức “Ban Liên lạc Cựu chiến binh Trinh sát Sư đoàn
308”. Một lần tôi thấy có thêm một phụ nữ đứng tuổi và được giới thiệu là con
gái anh Sừ, cũng là trinh sát viên trong Đội Trinh sát 308 chúng tôi nhưng đã
hy sinh đầu năm 1954, trong trận đánh ngăn chặn quân tiếp viện Pháp từ Lào sang
tăng cường cho cứ điểm Điện Biên Phủ. Chị ta (tôi quên mất tên) nói : “Bố cháu xưa cùng chiến đấu trong một đơn vị
với các bác, cháu là con gái, xin các bác coi cháu như con và cháu cũng xin được
gọi các bác là bố. Bố con hy sinh năm 1954 và con biết có mấy bố ở đây đã chôn
cất bố con. Đã nhiều đêm bố con hiện về, khóc lóc van nài con đưa hài cốt bố
con về mai táng ở quê, chứ ở trên ấy toàn rừng núi hoang vu buồn lắm... Trước thì chỉ thỉnh thoảng, nhưng gần đây
thì đêm nào bố con cũng hiện về. Con đã thuê thầy cúng lễ, tốn rất nhiều tiền
nhưng bố con vẫn cứ hiện về khóc lóc năn nỉ... khiến con không đành lòng, đành
lên van lạy các bố giúp con tìm hài cốt bố con để đưa về nghĩa trang liệt sĩ ở
quê...” Trong số trinh sát viên hôm ấy trực tiếp chôn anh Sừ, hiện còn sống
có anh Nguyễn Hữu Đễ, hiện là Trung tá về hưu cùng “tổ tam tam” với tôi và anh
Nguyễn Văn Quỳ (Đại tá Nghỉ hưu)... Do biết như thế, nên chị con gái anh Sừ cứ bám
chặt và van lạy ba chúng tôi. Cả ba chúng tôi thoái thác, viện lý do già yếu...
Từ đấy lần họp Cựu trinh sát 308 nào, chị ta cũng đến và lại tiếp tục năn nỉ,
thậm chí khóc lóc van lạy : “Mấy bố
thương con...” Do anh em tuổi cao cứ “đi” dần nên ban liên lạc cũng thưa dần
các cuộc họp. Đầu thập niên 2000, một hôm nhân có việc lên Vĩnh Yên, tôi ghé
thăm anh Đễ, người đồng đội thân nhất của tôi ở Đội Trinh sát 308. Hàn huyên một
lát, anh Đễ nói : “Ông có nhớ cái chị con gái cậu Sừ không ?” Rồi anh kể
một câu chuyện mà anh nói là chỉ kể cho riêng tôi vì anh đã hứa với hai mẹ con
chị ta là không kể ra với ai. Chuyện anh
Đễ kể “riêng cho tôi, bạn thân nhất khi phục vụ trong quân đội” tóm tắt như
sau. Chị con gái anh Sừ mấy lần lên van lạy anh Đễ giúp. Cuối cùng nể quá, biết
không thể thoái thác, anh buộc phải giúp. Chị ta thu xếp chuyến đi hết sức chu đáo,
lều bạt để đêm nằm nghỉ, ba bữa ăn rất thịnh soạn, cả xe ô-tô đưa đi và đặc biệt
chị ta mời một nhà “ngoại cảm” (lúc ấy nổi tiếng, nhưng lâu rồi, tôi đã quên
tên) cùng đi để tìm giúp, và chị ta cung phụng ông ta cực kỳ hậu hĩnh... Địa điểm
thuộc đất Lào nên phải xin giấy tờ khá phức tạp, nhưng rồi chị ta tháo vát và
khéo chạy nên qua được hết. Nơi ấy, sau nửa thế kỷ (1954-2002) cảnh vật thay đổi
quá nhiều. Dòng suối cũ chúng tôi chôn thi hài cậu Sừ bên bờ nay không còn chảy
theo dòng như xưa. Anh Đễ phải dò rất lâu mới tìm ra dòng cũ. Chưa kể rừng núi
ngày ấy hoang vu là thế, nay đã lác đác có người làm nhà để ở... Sau khi tìm và
thử đào mấy ngày không kết quả, một buổi tối đứa con trai chị ta (tức cháu ngoại
anh Sừ) đến lều anh Đễ nói, đại ý “Thầy
cho biết không hy vọng tìm thấy hài cốt của ông cháu, nên thầy ngỏ ý, để mẹ
cháu đỡ dằn vặt, đành phải đánh tráo bằng một “bộ” (ý nói bộ hì cốt) khác.” Anh Đễ hỏi “bộ” lấy ở đâu thì
cháu trả lời : “Thầy đã mang sẵn trong xắc.
Thầy bảo chuyện này chỉ nói riêng với cháu, nhưng cháu nghĩ cần hỏi ý kiến ông.
Cháu biết đấy là chuyện dối trá nhưng mục đích chỉ là để giải quyết tư tưởng
cho mẹ cháu, kẻo hôm nào mẹ cháu cũng bào “đêm qua ông ngoại hiện về, khóc và
thúc mẹ cháu đem hài cốt ông về nghĩa trang làng ta. Lần nào thức dậy mẹ cháu
cũng khóc như mưa như gió...” Anh Đễ đã trả lời : “Ông hiểu, nhưng đụng đến linh hồn người đã khuất là thứ linh thiêng thì
ông không thể bằng lòng kiểu dối trá như thế. Còn nếu cháu thấy cần thiết thì
cháu cứ tự quyết định. Ông không cản và cũng sẽ không lộ ra với ai.” Kể
xong, anh Đễ cho tôi biết sau đấy anh cũng không rõ đứa cháu kia xử sự cách
nào, và anh có linh cảm là cháu đã nghe theo lời khuyên của ông thầy để mẹ cháu
được thanh thản...Câu chuyện là như thế, tuy ông Đễ chỉ kể riêng cho một mình
tôi vì là bạn chí thiết khi ở quân đội, nhưng nếu bạn nào muốn xác minh có thể
liên lạc trực tiếp với anh Đễ theo số điện thoại (0211)3843154 hoặc đến gặp trực
tiếp. Gia đình anh Nguyễn Hữu Đễ cho đến gần đây (2010) vẫn ở trên đỉnh quả đồi
của Thành phố Vĩnh Yên (có thể hỏi Cụ Nguyễn Hữu Đễ, sinh năm 1930, hiện (hoặc
đã có thời gian) làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thị Xã Vĩnh Yên (nay đã lên
thành phố), con dâu anh hồi ấy là bác sĩ dinh dưỡng, làm việc ở Sở Y tế thành
phố. Đấy là địa chỉ và số điện thoại cũ (trước năm 2012), vì vài ba năm trở lại
đây, tôi không dịp nào liên lạc với anh. Anh Đễ sống ở Vĩnh Yên đã nhiều năm
nên hầu như hỏi “Cụ Đễ” tôi tin là nhiều người biết. Nếu cần thêm nữa, có thể
qua anh Nguyễn Văn Quỳ (đại tá nghỉ hưu) ở ngay Hà Nội (số điện thoại 38646337)
hoặc qua một trong số “cựu trinh sát viên 308 thời kỳ 1949-1954”).
3)
Chuyện thứ ba. Xung quanh chuyện
“tâm linh” này, tôi có thể kể thêm rất nhiều. Tuy nhiên tôi thấy phải kể một
chuyện để tạm kết thúc. Khoảng năm 1980, tôi mổ dạ dày xong, sức khỏe rất yếu,
bác sĩ khuyên nên chịu khó bồi dưỡng và có thể thì uống them bia. Nhân gần nhà
tôi (ở Trung Tự) lại có quầy bia Chùa Bộc nổi tiếng lúc ấy, tôi bèn chiều chiều
ra đấy uống một “vại” rồi lững thững về nhà ăn cơm chiều. Tính tôi không thích
la cà nên tôi chọn một bàn trống ở một góc khuất. Mấy hôm sau, một ông cũng trạc
tuổi tôi đến xin ngồi cùng. Hai chúng tôi cùng ngồi uống nhưng hầu như không ai
nói gì. Một hôm, nghe thấy phía bên ngoài rất đông khách đang sôi nổi truyền
nhau chuyện tìm mộ, thầy này giỏi, tìm không bao giờ sai. Họ tranh luận ầm ĩ. Đột
nhiên ông bạn ngồi cùng bàn hỏi tôi : “Anh
có tin không ?” Tôi đáp hờ hững : “Tôi
không biết có nên tin hay không.” Ông bạn bèn nói luôn : “Nhân đây tôi xin
kể với anh. Tôi từng là bộ đội hồi chống Pháp, sau Genève chuyển ngành sang Bộ
Ngoại giao và từng làm Đại biện, rồi Tùy viên Văn hóa ở trên một chục nước. Thuở
nhỏ tôi rất băn khoăn chuyện thiêng với chẳng thiêng và do bản tính tinh nghịch,
rất nhiều lần tôi đã thử ban đêm ra chỗ mộ mới chôn, hoặc đền miếu nghe đồn rất
thiêng, “bậy” ra đấy xem thử có bị “phạt” gì không, thì thấy không sao cả. Sau
đấy tôi nhiều lần thử, cả khi phục vụ trong quân đội, trải qua nhiều chiến trận,
chôn nhiều đồng đôi, tôi cứ chờ xem có thấy “hiện tượng nào “lạ” không, thấy
không có gì cả. Nhất là trận Lọc Nước, chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Đường Số 18),
không biết anh có tham gia khộng, quân ta chết rất nhiều, hàng chục xác lủng lẳng
trên dây thép gai, không cả kịp chôn. Sau đấy có dịp đi qua, tôi hy vọng thấy
hiện tượng gì lạ, nhưng không hề thấy gì ngoài mùi thịt thối nồng nặc. Ngay cả
khi công tác ở nước ngoài, dân họ cũng có nhiều người mê tín như ở ta, nhất là
mấy bà, hễ thấy đồn có hiện tượng “lạ” tôi đều tò mò, cất công đến xem, nhưng chẳng
lần nào thấy gì hết. Gần đây tôi quyết định không mất thời giờ, công sức vào những
trò tìm kiếm ấy nữa và kết luận “toàn chuyện tưởng tượng”. Hai chúng tôi bàn
nhau, tán thành nhận định của nhau. Một lúc, do không chú ý tôi nói hơi to, ông
bạn nhắc : “Khẽ chứ. Đám ngồi ngoài kia
nghe thấy họ dám đánh mình chết đấy. Nghề đời người “tin” rất ghét “người không
tin ! Giống như trong bàn nhậu, người
say rất ghét những thằng nào không say ấy.” Cuộc trò chuyện hôm ấy tôi cứ
nhớ mãi, rất tiếc không hỏi ông bạn “ngẫu nhiên” ấy tên là gì để tiếp tục liên
lạc. Nhưng nghĩ cũng chẳng để làm gì...
4)
Tạm kết luận. Đến nay thì tôi đã có kinh nghiệm. Chuyện “tin” và “không
tin” là bình thường. Nhưng khi tranh cãi đến đề tài ấy dễ sửng cồ lên với nhau.
Thậm chí với những người thân thiết và tưởng chừng hiểu nhau và tôn trọng nhau.
Thí dụ tôi với ông thông gia (cũng từng là quân nhân, thậm chí là trí thức -Đại
tá, bác sĩ quân y) chỉ do đụng đến “vấn đề tế nhị” ấy, mà một lần đã to tiếng với
nhau, may con trai cả của ông ấy có mặt ở đấy dàn hòa cho hai chúng tôi. Và hai
chúng tôi cười xòa, chuyển sang đề tài khác để tiếp tục trò chuyện !
*
ỦNG HỘ :
Xin nhắc lại, tôi nêu vấn đề ra không phải để
tranh luận, chỉ là để các bạn tham khảo và suy nghĩ thêm. Tuy nhiên cũng cần phải
nói, tôi chứng kiến nhiều trường hợp cái gọi là sự “tin” ấy đã “giúp ích” được
nhiều người. Xin tạm đưa ra mấy thí dụ :
Chuyện
thứ nhất
Quê tôi có một bà, mấy lần giở dạ, đứa bé
sinh ra đều bị ngạt và không nuôi được. Sau lúc ấy bà kể lại là đúng lúc bà dặn
đẻ thì có một người đàn bà bé xíu, nón thúng quai thao đứng ở cửa, chìa hai tay
ra đón, thế là đứa bé bị ngạt và chết. Người đàn bà nón thúng quai thao ấy bồng
đứa bé chạy biến đâu mất tăm… Dân quê tôi gọi đấy chính là “Mẹ Ranh Càn Sát”…
Bà ta có mang mấy lần, nhưng cuối cùng vẫn chưa được đứa con nào. Tất cả đều bị
“mẹ Ranh Càn Sát” ẵm đi mất… Năm ấy, ông em bà đi lính ở Pháp về (Thế chiến I),
thấy thế bèn nghĩ ra một cách. Bà chị lại có thai, và lúc sắp giở dạ, ông đem cả
đống roi dâu (nghe đồn là ma rất sợ cành dâu) đã chuẩn bị trước, dựng khắp bốn
bức tường xung quanh giường bà chị, rồi dán các thứ bùa cả trên hai cánh cửa lẫn
đồ đạc trong nhà, chờ. Đúng lúc bà chị hoảng hốt hét lên : “Nó kia kìa ! Mẹ
Ranh Càn sát ấy !” thì ông em cầm luôn một bó roi dâu chạy ra cửa, theo hướng
trỏ của bà chị, rồi miệng quát, tay quật tứ tung, vọt ra khỏi nhà, lát sau quay
vào, đem theo một cái giẻ đang cháy, khói nghi ngút : “Em bắt được con ma rồi !
Nó đây này !” Bà chị bỗng thở phảo nhẹ nhõm và đứa bé được sinh ra trót lọt...
Chuyện
thứ hai
Hồi ấy tôi đạo diễn kịch bản “Nơi cuộc đời ẩn
náu” của nhà văn xô-viết Victor ROZOV cho Đoàn Kịch nói Hà Nội. Kịch được ông viết
ra vào thập niên 1970, lúc xã hội Liên Xô đang rối bời, mọi mặt sa sút đến thảm
hại, và phong trào mê tín dị đoan phát triển như nấm sau mùa mưa. Kịch miêu tả
những chuyện “chỉ trong nhà biết với nhau” của gia đình một quan chức cấp cao.
Ông bố từng là Đại sứ Liên Xô ở nhiều nước, và say mê sưu tầm đồ cổ, đặc biệt
là đồ cổ các dân tộc châu Phi. Cô con gái đã có chồng nhưng bị chồng ngoại
tình, rất đau khổ. Một hôm ông bố vào phòng bầy các đồ cổ thu thập được, bắt gặp
con gái đang xì xụp khấn trước một pho ngẫu tượng châu Phi. Ông quát : “Con một cấp ủy Đảng mà mê tín thế à ?”
Cô con gái nói : “Con có nhiều nỗi đau khổ,
không biết thổ lộ cùng ai. Bố thì mải tiếp các đoàn khách nước ngoài, mẹ thì mải
trang điểm làm đẹp… Con thấy chỉ có ở đây, con mới có thể thổ lộ nỗi lòng đau
khổ được. Con không biết cái ông thần kia là ai và quyền phép đến đâu. Nhưng
con cần một ai đấy để thổ lộ cho nhẹ bớt nỗi lòng…” Qua đoạn kịch này, tôi
thấy rõ nhu cầu tạm gọi là “tâm linh” của những người cảm thấy mình bất hạnh.
Ngay nhà văn Mỹ Sheldon, người được tặng giải
tác giả Mỹ được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài nhất, trong tác phẩm cuối cùng,
mang tính gần như hồi ký, có kể chuyện là sau khi vợ ông bị mất đứa con, cả hai
vợ chồng đau đớn tột cùng, cuối cùng ông tìm thấy sự giải tỏa khi sử dụng những
đĩa ghi bài giảng giáo lý của giáo phải X. đang rất có uy tín ở Mỹ… Khi đọc và
dịch cuốn “Phía bên kia của Tôi” ấy,
lúc đầu tôi rất ngạc nhiên vì đấy là một giáo phái bị nhiều người vạch ra là “bịp
bơm” ! Nhưng tác giả Sheldon thì lại nói, những bài thuyết giáo của giáo phái ấy
đã làm hai vợ chồng ông dịu đi nỗi đau…
Gần ngay bên cạnh tôi là ông em rể. Sau khi
em gái tôi mất, cậu ta rất đau khổ và đâm thành “mê tín” ! Là một cử nhân tốt
nghiệp Đại học Tổng hợp và làm giáo viên cấp Ba mà bây giờ mời đồng cốt, đi áp
vong…đủ thứ… rồi kể tôi nghe rất nhiều chuyện tôi không thể tin. Nhưng tôi
không phản đối mà hiểu, cậu ta quá yêu em gái tôi và khi vợ mất, cậu ta chỉ còn
cách dùng “tâm linh” để nhẹ bớt nỗi đau khổ, thương nhớ…
Và xin kể một câu chuyện tạm coi là cuối
cùng. Hồi mẹ tôi còn sống, một hôm mẹ tôi bảo vợ tôi, một cán bộ y tế trung cấp,
đến chùa Quan Hoa (bên Hồ Thiền Quang) tiêm thuốc cho “bà sư”. Bà là người làng
tôi, xưa lấy chồng là một ông Thông Phán, nhưng ông này chơi bời quá, bà chán đời
bèn trốn nhà đi tu. Chuyện cách đây mấy chục năm và nay bà đã lên đến chức “Sư
Cụ”. Bà rất hiền và rất mộ đạo Phật… Bà là một minh chứng cho tác dụng an ủi của
tôn giáo, nhất là đạo Phật…
Ngay nhà văn Nga Anton TCHEKHOV, trong lời
khuyên các nhà văn trẻ cũng có nói “Điều quan trọng nhất là phải lao động và có
niềm tin” (труд и вера)… Theo tôi hiểu
“niềm tin ở đây có nghĩa tin Chúa !
Cho nên thiết nghĩ, nhu cầu “tin” cũng hết sức
quan trọng. Hiện nay nhiều người đi Chùa, khấn trước tượng Phật chỉ để chửi cho
bõ tức (cũng là một thứ tác dụng tâm linh) những tên quan chức đểu cáng, làm hại
chồng con họ. Nếu không “trút nỗi uất giận” trước Phật thì trút đi đâu ? Cho nhẹ
bớt nỗi lòng căm giận ?
11-2014.
V.Đ.PHÒNG
THAM KHẢO THÊM :
NGUỒN GỐC CỦA MÊ TÍN
Nhân
đọc bài “Ai ăn lộc thánh” của Phan Tất
Đức (thạc sĩ ngành quản lý) đăng trên VN
Express ngày Chủ Nhật 1-3-2015, tôi muốn thổ lộ những suy nghĩ riêng tư của
tôi về nguyên nhân “hiện tượng” mê tín. Bởi theo tôi nghĩ, đấy là một hiện tượng.
Cũng
như rất nhiều bạn khác, tôi sinh ra trong một môi trường đầy mê tín và ngay từ
nhỏ đã thấy vô số những trò vô lý, tức cười… rất “trẻ con” ấy, xung quanh chuyện
mê tín.
Một
số người đánh đồng giữa “mê tín” và “tín ngưỡng” và gọi chung hai thứ ấy là
“nhu cầu tâm linh”, một khái niệm đối với tôi, cho đến hôm nay, mặc dù đã ngoài
80 tuổi và suốt đời chịu khó đọc sách rồi suy ngẫm, vẫn chưa hiểu nổi.
Thế
nào là “tâm linh” ? Một tạp chí Pháp có tên là ESPRIT chuyên nói về những hiện
tượng “siêu nhiên”. Và phải chăng “mê tín” và “tín ngưỡng” dịch sang ngôn ngữ
Pháp là những thứ liên quan đến “esprit”
hay “spirituel” ? Con người, đại đa số
đều có một số điều “mê tín”. Không chỉ các dân tộc Phương Đông chúng ta mà cả các
dân tộc Phương Tây cũng có nhiều thứ “mê tín” , thí dụ họ rất kiêng con số 13 !
Nhiều tòa nhà cao tầng hiện đại, bỏ qua tầng thứ 13, và nhiều chung cư cũng như
khách sạn khi đánh số căn hộ hoặc phòng, cũng nhẩy qua con số “sui sẻo” ấy vì sợ
nhiều người coi đấy là con số “nguy hiểm”.
*
Thế rồi đến một hôm, đọc cuốn LỊCH SỬ VĂN MINH TRUNG HOA
của nhà nghiên cứu lịch sử, triết học… nổi tiếng thế giới DURANT, có đoạn ông này
giải thích hiện tượng dân Trung oa biến
triaaets gia HHHHoa biến triết gia vĩ đại Lão Tử thành một vị Thánh rồi
thờ cúng, tổ chức lễ hội, tôn vinh ông, thậm chí biến ông thành Thái thượng Lão
Quân để cúng bái… Để trích dẫn nguyên văn lời giải thích của Durant, tôi bèn lục
lọi và may thay đã thấy. Xin trích nguyên văn đoạn ấy như sau (theo bản dịch của
NGUYỄN HiẾN LÊ).
«Tôn giáo đơn sơ và gần như duy lý
ấy (Đạo Khổng) không làm cho đại chúng thỏa mãn. Vì rất ít phần tượng trưng,
không đáp ứng được những hy vọng, mơ mộng của con người, không chấp nhận sự tin
dị đoan mà chính những dị đoan làm cho đời sống hàng ngày cuồng nhiệt hơn. Vì ở
Trung Hoa cũng như ở các nước khác, dân chúng thích dùng cái nên thơ của sự
linh dị mà tô điểm thêm cho đời sống bình phàm bằng một thế giới quỉ thần,
thiện hay ác, lởn vởn xung quanh họ, và họ muốn dùng những câu thần chú hoặc
những lời cầu khẩn để các quỷ thần ấy không hại được họ, hoặc phù hộ cho họ
nữa. Họ nhờ thầy bói dùng mai rùa hay cỏ thi đoán tương lai cho họ theo Kinh
Dịch ; họ muốn những nhà phong thủy để mả hoặc để hướng nhà cho ; họ
thuê bọn phù thủy cầu mưa hay nắng cho… Đặc biệt là người Hoa Nam có óc thần
bí, không ưa tính cách lạnh lùng, duy lý của Khổng Giáo và muốn có một tôn
giáo tặng họ niềm an ủi là được hưởng đời sống vĩnh cửu. Cho nên vài nhà thần
học bình dân mượn ngay những học thuyết hơi mơ hồ của Lão Tử rồi lần lần tạo
nên một tôn giáo. Lão Tử và Trang Tử cho đạo là một quy tắc sống, một phương
tiện để cho thế giới được thái bình, chứ không bao giờ coi nó là một đấng thần
linh, lại càng không cho rằng nhờ theo nó mà xuống hố rồi vẫn còn được sống
trên một cõi nào khác. Nhưng tới thế kỷ II, có một số người bảo được Lão Tử
truyền cho một thứ thuốc bất tử, và sửa đổi (đề ra một cách lý giải sai lệch)
học thuyết của Lão Tử. Thứ thuốc ấy được nhiều người ham lắm và tương truyền
nhiều ông Vua lạm dụng mà chết. Khoảng năm 148 sau T.L., một thầy tu thần bí
bán một thứ bùa rất giản dị mà trị được bách bệnh lấy năm hộc lúa. Có thể rằng
thứ bùa đó trị được bệnh cho vài người, còn những kẻ không hết bệnh thì ông ta đổ
tại thiếu đức tin, nên bùa không công hiệu. Thế là thiên hạ ùn ùn theo tôn
giáo mới, dựng đền, quyên rất nhiều tiền tặng các thầy tu [hay thầy phù thủy ?]
đó, đem lòng tin dị đoan của họ ra thờ tôn giáo mới. Lão Tử thành một vị thần (Thái Thượng Lão
Quân), bảo ông ở trong bụng mẹ tám mươi năm mới ra đời, cho nên mớí sinh ra,
ông đã già, tóc đã bạc, minh triết ngay rồi. Trong một ngàn năm, Đạo Giáo thu
hút được hàng triệu tín đồ, thuyết phục được nhiều ông vua và kiên nhẫn dành
ảnh hưởng với Khổng Giáo, ngăn cản triều đình thu thuế để tiêu vào việc nước.
Sau nó phải thua, không phải vì đạo Khổng hợp lí, mà vì một tôn giáo mới mạnh
hơn, an ủi được hạng bình dân hơn, tức đạo Phật… »
Phải chăng đoạn trích trên có nghĩa DURANT cho rằng nguồn
gốc của “mê tín” là nhu cầu vui chơi ? Mà hình như nhu cầu ấy ở nữ giới mạnh
hơn ở nam giới, nhất là lớp trẻ, tràn trề sức sống và dễ “a dua”. Tôi tạm gọi
là “nhu cầu thích đàn đúm”.
Nhân đây tôi lại nhớ một trường hợp xảy ra với tôi.
Vào khoảng năm 1948, hôm ấy tôi có việc phải đến Ủy Ban Huyện Đông Triều. Lúc
đang đạp xe trên đường số 18, tôi gặp một đám con gái trẻ… Nhìn thấy tôi, một
cô trêu : “Anh bộ đội ơi, có thích ôm con gái không thì xuống xe đi, ôm em ấy !
Em cho đấy !” Thấy trò chơi có vẻ vui, một cô khác hét lên : “Em yêu anh lắm,
anh bộ đội đẹp trai ơi. Xuống xe đi, rồi ôm em nào !” Thấy trò thú vị, cả đám,
chừng gần hai chục cô gái trẻ 15- 20 tuổi cười ầm lên rồi nhao nhao, tranh nhau
hét : “Yêu em nào, em xinh hơn nó. Nào, anh bộ đội, xuống đây, ta ôm nhau, vú
em to lắm… Em cho anh tha hồ bóp đấy” Rồi cả đám nhao nhao, vừa cười rộ vừa la
hét, mỗi lúc một táo tơn, thậm chí tục tĩu hơn… Tôi hết hồn, vội phóng xe đạp
thật nhanh, có cô còn níu xe, khiến tôi phải gỡ mạnh hoặc lao xe nhanh hơn… Lúc
đến Đông Triều, tôi vào nhà ông Chủ tịch. Đang uống nước thì thấy tiếng chào :
“Cháu chào chú ạ !” Tôi nhin ra, thấy một cô gái, chính là trong đám trêu tôi
lúc trước. Ông Chủ tịch giới thiệu : “Cháu chào chú đấy !” Cô gái nhận ra tôi,
mặt đột nhiên đỏ nhừ, xấu hổ cúi đầu chạy nhanh vào nhà trong…
Cũng cần nói thêm, là hiện tượng đùa giỡn ấy còn có sức
lây lan rất nhanh, và biến thành một thứ “triệu chứng bệnh lý” y học gọi là
“hysteria” ! Nhưng đấy là chuyện khác. Nhưng nhu cầu “tâm linh” ấy phải chăng
là một thứ “giải trí” hoặc “giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống” ? Và con
người ta có nhu cầu “tin” vào một sức mạnh siêu nhiên” nào đấy. Bởi có nhiều
lúc con người ta thấy bất lực, cần cầu cứu một sức mạnh siêu nhiên nào đấy.
Tôi
lại nhớ một chuyện khác. Hồi tôi dịch rồi đạo diễn cho Đoàn Kịch Hà Nội vào khoảng
thập niên 1990 kich bản xô-viết “Nơi cuộc đời ẩn náu”, có một đoạn như sau.
Nhân vật chính là một cô gái trẻ. Cô có chồng nhưng vẫn sống cùng cha mẹ. Cha
cô là một cán bộ ngoại giao, từng làm đại sứ ở nhiều nước, và ông đem về nhiều
thứ của nước ngoài mà ông bầy trong một phòng, gần như một viện bảo tàng nhỏ :
những mặt nạ châu Mý La tinh, tượng thần thánh dân gian châu Phi… Một hôm tình
cờ ông bước vào và thấy con gái đang quỳ, chắp tay khấn vái trước một pho “ngẫn
tượng” châu Phi. Ông nổi nóng : “Bố là đảng viên Cộng Sản mà con lại mê tín thế
à ?” Cô gái, lúc ấy biết chồng ngoại tình với một bạn gái của cô, đang trong
tâm trạng đau khổ, bèn đáp : “Thế bây giờ con muốn than thở thì than thở với ai
? Bố thì suốt ngày đi vắng. mẹ thì suốt ngày đánh bài với bè bạn… Con chỉ có một
cách là thổ lộ nỗi lòng để vơi bớt nỗi đau khổ với pho tượng này thôi, chứ con có
cần biết ông ta là ông thần hay ông thánh nào đâu ?”
Nhìn vào hiện tượng dân kéo đến các đền Bà Chúa Kho,
Thánh Gióng… thì chúng ta thấy họ có hai nhu cầu : một là vui chơi và hai là thổ
lộ mong ước thầm kín (thí dụ mong thần thánh vật chết cái “lão” thủ trưởng khốn
nạn, chuyên ép nhân viên nữ phải ngủ với hắn…) chẳng hạn…
Ấy đấy, nguồn gốc của mê tín phải chăng là ở đấy… và nếu
như thế thì đúng là “nhu cầu” không phải tâm linh mà nhu cầu tinh thần, con người
ta đang cần một niềm an ủi, một nơi thổ lộ những mong ước thầm kín… mà họ không
thể nói ra công khai ?